• Phone: 0235.3851.429
  • Hotline: 19009095
  • Thông tin:

dieuhanhtructuyen

Đào tạo NCKH

Cập nhật hướng dẫn và chẩn đoán, điều trị, dự phòng các bệnh ký sinh trùng

  • PDF.

Bs Lê Thị Hà - 

I. BỆNH DO GIUN

1. GIUN XOẮN (Trichinella spiralis)

1.1. Đại cương

Bệnh giun xoắn ở người gây ra bởi một loại giun tròn thuộc giống Trichinella spiralis . Trong thiên nhiên nhiều động vật mang ký sinh trùng này. Người bị nhiễm do ăn phải thịt heo sống hay chưa nấu chín có nhiễm Trichinella spiralis, truyền qua thịt động vật, ký sinh ở ruột non người và động vật (lợn, chó, mèo, chuột, gấu, báo, cáo, chồn, sói, ngựa,...), ấu trùng ký sinh chủ yếu ở cơ vân.

1.2. Đặc điểm dịch tễ học: Bệnh giun xoắn có thể gặp ở khắp nơi trên thế giới, tỷ lệ mắc phụ thuộc vào tập quán ăn sống, ăn tái. Ở những vùng mổ lợn không có kiểm tra của Thú y và dân có tập quán ăn sống, ăn tái, ăn tiết canh lợn và các sản phẩm từ thịt lợn chưa nấu chín sẽ mắc bệnh giun xoắn với tính chất dịch.

1.3. Phương thức lây truyền

- Qua đường ăn uống: ăn sống, ăn tái, ăn tiết canh và các sản phẩm từ thịt (chủ yếu là thịt lợn) nhiễm ấu trùng giun xoắn chưa nấu chín kỹ.

- Giun xoắn không lây truyền trực tiếp từ người sang người.

Xem tiếp tại đây

Lần cập nhật cuối lúc Thứ ba, 06 Tháng 8 2024 21:00

Chậm tỉnh mê

  • PDF.

BS Hồ Kiến Phát - 

I/ Tổng quan

Sự phục hồi đầy đủ sau gây mê toàn thân được định nghĩa là một trạng thái ý thức của một cá nhân khi họ tỉnh táo hoặc kích thích và nhận thức được môi trường xung quanh và danh tính của họ. Là kết quả của việc loại bỏ các tác nhân gây mê khỏi não.

Bệnh nhân thường phản ứng với lời nói ở MAC thức tỉnh 0,3 nếu không bị cản trở bởi các yếu tố khác: opioid, tồn dư giãn cơ, hạ thân nhiệt, mất máu…Phục hồi sau dùng opioid tĩnh mạch và thuốc an thần có thể thay đổi và khó định lượng hơn các phục hồi từ thuốc mê hô hấp và thuốc giãn cơ.

Việc thức tỉnh chậm sau khi gây mê vẫn là một trong những thách thức lớn nhất đối với bác sĩ gây mê. Hiện nay vẫn không có sự đồng thuận thống nhất về sự phục hồi ý thức bị trì hoãn: chẩn đoán dựa trên lâm sàng và tỷ lệ mắc chính xác không được biết. Hầu hết các trường hợp phục hồi chậm ý thức đều được điều trị nhanh chóng, mặc dù tồn tại các trường hợp hiếm gặp và bệnh lý nguy cơ rất nặng.

Ngày nay với việc sử dụng các thuốc gây mê có tác dụng nhanh, bệnh nhân thường thức tỉnh nhanh chóng trong giai đoạn thoát mê. Thời gian thoát mê bị ảnh hưởng bởi yếu tố bệnh nhân, yếu tố gây mê, thời gian phẫu thuật và các kích thích đau. Các yếu tố chính quyết định thức tỉnh chậm sau gây mê là các tác nhân gây mê và thuốc được sử dụng trong giai đoạn tiền phẫu. Một số rối loạn chuyển hoá tiềm ẩn như hạ oxy máu, ứ thán, tăng đường huyết, hạ đường huyết, mất cân bằng điện giải đặc biệt tăng natri máu, tăng huyết áp mạn tính, hạ albumin máu, suy gan, tiết niệu và suy giáp nghiêm trọng cũng có thể là nguyên nhân dẫn đến sự phục hồi chậm sau gây mê. Sự phục hồi chậm ý thức sau gây mê cũng có thể là do thiếu oxy não trong phẫu thuật, xuất huyết, thuyên tắc hoặc huyết khối. Chẩn đoán nguyên nhân là chìa khoá cho việc lựa chọn phương pháp điều trị thích hợp, nhưng quản lý chính là duy trì đường thở, hô hấp và tuần hoàn.

chamtinh

Xem tiếp tại đây

Lần cập nhật cuối lúc Thứ tư, 31 Tháng 7 2024 16:57

Ung thư vú tái phát cục bộ

  • PDF.

BS. Phạm Tấn Trà – 

Tổng quan:

Ung thư vú (UTV) là bệnh không đồng nhất với tính chất phân tử khác nhau, điều trị đa mô thức, tiên lượng khác nhau. Hiện nay, UTV được chẩn đoán thường xuyên nhất trên toàn thế giới, chiếm 23% số ung thư ở phụ nữ, đồng thời là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu liên quan đến ung thư ở phụ nữ, chịu trách nhiệm cho 14% số ca tử vong do ung thư [1].

Nguy cơ tái phát cao nhất trong 2-3 năm đầu sau đó giảm dần [2]. Khoảng 10-20% các trường hợp tái phát là chỉ tái phát tại chỗ tại vùng (tái phát cục bộ), trong khi 60-70% là di căn xa ở một hoặc ở nhiều vị trí khác [2]. Tỷ lệ và vị trí tái phát phụ thuộc vào giai đoạn khối u ban đầu, liệu pháp điều trị trước đó, sinh học khối u và độ nhạy của chẩn đoán. Tỷ lệ sống 5 năm sau khi tái phát thành ngực đơn độc là 68%; sau khi tái phát trong vú là 81%

k vu cucbo

Xem tiếp tại đây

Lần cập nhật cuối lúc Thứ tư, 31 Tháng 7 2024 16:57

Sốc nhiễm trùng kháng trị: Cách tiếp cận thực tế

  • PDF.

Bs Trương Minh Trí - 

TỔNG QUAN

Mặc dù được can thiệp kịp thời, vẫn tồn tại một nhóm nhỏ bệnh nhân sốc nhiễm trùng tiến triển đến suy đa cơ quan, dường như kháng lại liệu pháp thông thường và có tỷ lệ tử vong rất cao. Những bệnh nhân như vậy thường ít được thể hiện trong các thử nghiệm lâm sàng lớn. Do đó, thiếu bằng chứng tốt cho các chiến lược điều trị hiệu quả. Trong bài viết này, mô tả một cách tiếp cận thực tế, đa diện để quản lý bệnh nhân bị sốc nhiễm trùng kháng trị dựa trên kinh nghiệm về nhiễm trùng huyết tại một trung tâm chuyên khoa.

Guidelines Sepsis cung cấp một hướng dẫn phù hợp để điều trị cho phần lớn bệnh nhân bị sốc nhiễm trùng. Liệu pháp kháng sinh phù hợp và kịp thời, kiểm soát ổ nhiễm trùng, liệu pháp truyền dịch và thuốc vận mạch là điều trị chủ chốt. Tuy nhiên, một tỷ lệ nhỏ bệnh nhân không đáp ứng với các biện pháp này và tiến triển nhanh chóng đến tình trạng sốc kháng trị và suy đa cơ quan. Phân nhóm bệnh nhân này thường ít được thể hiện trong các thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng lớn nhằm điều tra hiệu quả của các biện pháp can thiệp trong sốc nhiễm trùng. Kết quả là có rất ít bằng chứng thuyết phục để hướng dẫn điều trị đối với nhóm bệnh nhân này.

Sốc nhiễm trùng kháng trị được định nghĩa khi có hạ huyết áp, kèm theo rối loạn chức năng cơ quan, cần hỗ trợ thuốc vận mạch liều cao thường lớn hơn 0,5 microgam/kg/phút norepinephrine hoặc tương đương. Tỷ lệ tử vong lên tới 60%. Hơn nữa, những bệnh nhân có nhu cầu thuốc vận mạch lớn hơn 1 microgam/kg/phút norepinephrine hoặc tương đương mà tình trạng lâm sàng tiếp tục xấu đi có tỷ lệ tử vong lên tới 80 - 90%.

sockhangtri

Lần cập nhật cuối lúc Thứ hai, 29 Tháng 7 2024 08:23

Đọc thêm...

Đa ối: Bệnh nguyên- Chẩn đoán- Xử trí

  • PDF.

Bs Thái Thị Phương Oanh - 

GIỚI THIỆU

Đa ối (Polyhydramnios hay hydramnios) dùng để chỉ lượng nước ối quá nhiều. Nó liên quan đến việc gia tăng nguy cơ các kết cục thai kỳ bất lợi khác nhau, bao gồm sinh non, nhau bong non và dị tật thai nhi.

Đa ối nên được nghi ngờ trên lâm sàng khi kích thước tử cung lớn hơn so với tuổi thai (chiều cao tử cung [cm] lớn hơn số tuần tuổi thai >3). Chẩn đoán dựa trên siêu âm khi đo thể tích nước ối (AFV) bằng kỹ thuật định lượng không xâm lấn, chẳng hạn như chỉ số ối ≥   24 cm hoặc độ sâu xoang ối lớn nhất ≥ 8 cm.

TỶ LỆ MẮC BỆNH

Nhìn chung, tỷ lệ mắc bệnh đa ối dao động từ 1-2%. Tỷ lệ này bị ảnh hưởng nhiều bởi tuổi thai tại thời điểm siêu âm (non tháng cao hơn, quá ngày thấp hơn), quần thể được nghiên cứu (nguy cơ thấp hay cao, khám siêu âm chỉ định trước khi sinh hoặc trong khi sinh), và sự khác nhau trong tiêu chuẩn chẩn đoán ( sử dụng chỉ số ối AFI so với độ sâu xoang ối lớn nhất).

Trong một loạt hơn 93.000 trường hợp mang thai đơn thai kéo dài hơn 6 năm tại một bệnh viện, đa ối được chẩn đoán trong quá trình siêu âm trước khi sinh với tỷ lệ 0,7% và được mô tả với mức độ nhẹ, trung bình hoặc nặng là 66%, 22% và 12%.

daoi

Xem tiếp tại đây

 

Lần cập nhật cuối lúc Thứ tư, 24 Tháng 7 2024 20:21

You are here Đào tạo