• Phone: 0235.3851.429
  • Hotline: 19009095
  • Thông tin:

dieuhanhtructuyen

Đào tạo NCKH

Kỹ thuật chụp cắt lớp vi tính ngực liều thấp

  • PDF.

Bs Nguyễn Tấn Thương - 

1. Liều chiếu xạ

Liều chiếu xạ cho 1 phim X quang phổi chụp tư thế sau – trước khá thấp, khoảng 0,02-0,2mSv (miliSievert) và không nhiều hơn mức nhiễm xạ tự nhiên từ bức xạ của vỏ trái đất trong 3 ngày. Vai trò là tác nhân ung thư của bức xạ tia X trong chiếu xạ y tế là một vấn đề phức tạp. Nguồn dữ liệu đầu tiên được báo cáo liên quan đến các nạn nhân sống sót sau vụ nổ bom nguyên tử ở Hiroshima và Nagasaki. Tỷ lệ tử vong do vượt ngưỡng chiếu xạ được ghi nhận là lớn hơn 0,2 Sv (200 mSv) [8].

Hội đồng an toàn bức xạ quốc tế (La Commission internationale de radioprotection –ICRP) đã xác định nguy cơ của bức xạ tia X là gây tử vong do ung thư ở 50 trường hợp trên một triệu người khi tiếp xúc với liều chiếu xạ là 1 mSv. Có nghĩa là với liều chiếu xạ 20Sv thì gây 1 trường hợp tử vong hay 5 tử vong nếu 100Sv, tỷ lệ 5%. Sự tồn tại của nguy cơ này, dù nhỏ nhưng vẫn gây tranh cãi và do vậy, đã chứng minh cho mọi nỗ lực để giảm liều chiếu xạ, trong đó có tối ưu hóa kỹ thuật  [154]. Nguyên tắc chung của giảm liều là sử dụng mức độ bức xạ tối ưu nhất cho bệnh nhân nhưng vẫn đạt được chất lượng hình ảnh đảm bảo cho chẩn đoán (as low as reasonably achievable – ALARA)  [6]. 

Định nghĩa chung trong CLVT ngực, khái niệm chụp CLVT ngực liều thấp được gọi cho tất cả các trường hợp giảm liều chiếu xạ so với tiêu chuẩn/ thường quy [8]. 

lieuthap

Hình ảnh minh họa phim CLVT ngực liều thấp

Xem tiếp tại đây

Lần cập nhật cuối lúc Thứ ba, 09 Tháng 7 2024 21:13

Gãy Galeazzi

  • PDF.

Bs Trần Phước Việt - 

gay galeazzi1

Xem tại đây

 

Lần cập nhật cuối lúc Thứ bảy, 06 Tháng 7 2024 17:30

Liệu pháp tân bổ trợ điều trị ung thư vú giai đoạn sớm

  • PDF.

Bs Phạm Tấn Trà - 

Ung thư vú loại ung thư gặp phổ biến ở nữ giới, với hơn 2,2 triệu ca mắc mới ( 23.8% ở nữ) và hơn 600 nghìn người mất mỗi năm (đứng thứ 4) [1]. - Và ở Việt Nam, ung thư vú là nguyên nhân gây tử vong thứ 4 do ung thư (sau gan, phổi, dạ dày) và đứng hàng đầu về tỷ lệ mắc mới (hơn 24 nghìn ca mới) [1].

Do tỉ lệ mắc mới cao và tiên lượng tốt ( tỉ lệ sống 5 năm khoảng 91% [2]) nên tỉ lệ lưu hành bệnh cao trong cộng đồng. Có 72 617 phụ nữ mắc ung thư vú ở Việt Nam ở năm 2022 [1].

90-95% ung thư vú được chẩn đoán ở giai đoạn sớm và chỉ 5-10% chẩn đoán ở giai đoạn di căn. Có khoảng 20-30 % ung thư vú giai đoạn sớm phát triển di căn [3].

Phối hợp đa chuyên khoa (multidisciplinary teams) (phẫu thuật, xạ trị, liệu pháp toàn thân, chăm sóc giảm nhẹ) giúp nâng cao hiệu quả điều trị cho bệnh nhân và kết cục tốt hơn [4].

tanbotro

Xem tiếp tại đây

Lần cập nhật cuối lúc Thứ bảy, 06 Tháng 7 2024 17:29

Sốt chuột cắn: Streptobacillus Moniliformis và Spirillum Minus

  • PDF.

Bs Nguyễn Thị Thuỳ Nương - 

Sốt chuột cắn là một bệnh toàn thân hiếm gặp thường lây truyền qua vết cắn của chuột hoặc các loài gặm nhấm nhỏ khác. Bệnh lý nhiễm trùng này phân bố trên phạm vi toàn cầu, có thể gây ra bởi Streptobacillus moniliformis hoặc Spirillum minus, các vi khuẩn này thường cư trú ở vùng hầu họng của các loài gặm nhấm. Bệnh do Streptobacillus chiếm phần lớn số ca sốt do chuột cắn ở Hoa Kỳ, trong khi nhiễm trùng do S. minus xảy ra chủ yếu ở châu Á.

Bệnh do chuột cắn đã được biết đến ở Ấn Độ từ hơn 2000 năm trước và hội chứng sốt chuột cắn đặc trưng được ghi nhận ở Hoa Kỳ vào đầu năm 1839. Đầu thế kỷ 20, các trực khuẩn gram âm gây bệnh, ban đầu được đặt tên là Streptothrix muris ratti. Năm 1925, vi khuẩn được phân lập từ mẫu cấy máu của một nhân viên phòng thí nghiệm bị sốt, phát ban và viêm khớp được đặt tên là S. moniliformis, dựa trên sự giống nhau về hình thái của nó với một chiếc vòng cổ đính cườm. Năm 1926, một vi sinh vật tương tự, Haverhillia multiformis, được nuôi cấy từ máu của những bệnh nhân trong một trận dịch bệnh giống như bệnh sốt chuột cắn ở Haverhill, Massachusetts. Cả H. multiformis và S. muris ratti sau đó đều được chứng minh là giống hệt với S. Moniliformis - tác nhân gây bệnh sốt chuột cắn do cầu trực khuẩn.

sotchuot

Xem tiếp tại đây

 

Lần cập nhật cuối lúc Thứ bảy, 06 Tháng 7 2024 17:29

Thai bám sẹo mổ lấy thai – Cập nhật chẩn đoán và quản lý bước đầu

  • PDF.

Bs Đinh Thị Thu Trang - 

Thai bám sẹo mổ lấy thai (CSP- Cesarean Scar Pregnancy) là một biến chứng trong đó thai kỳ làm tổ vào sẹo mổ từ lần sinh trước. Tỷ lệ mắc CSP có xu hướng tăng lên cùng với tỷ lệ mổ lấy thai ngày càng cao. Tình trạng này có liên quan đáng kể đến các biến chứng thai kỳ nặng và gia tăng tỷ lệ tử vong mẹ như băng huyết, nhau cài răng lược, vỡ tử cung ….., nên đặt ra những thách thức trong việc chẩn đoán sớm và có kế hoạch quản lý phù hợp.

Siêu âm là công cụ chính để chẩn đoán CSP, mặc dù việc xác định chính xác và kịp thời còn nhiều khó khăn.

Tuổi thai tối ưu để khảo sát, đánh giá thai bám sẹo mổ lấy thai là 6 – 7 tuần. Tuy nhiên khuyến nghị thời điểm áp dụng có thể trong 3 tháng đầu (đến 12 tuần). Đánh giá CSP được khuyến nghị cho tất cả phụ nữ đã từng mổ lấy thai trước đó.

thaiseomo 

Nguồn hình: Báo cáo chuyên đề Thai bám sẹo mổ lấy thai- Chỉ đạo tuyến BV Từ Dũ

Muốn biết thêm chi tiết xin mời đọc tại đây.

Lần cập nhật cuối lúc Thứ tư, 03 Tháng 7 2024 14:51

You are here Đào tạo