• Phone: 0235.3851.429
  • Hotline: 19009095
  • Thông tin:

dieuhanhtructuyen

Tập san Y học

Nội soi bàng quang với ánh sáng xanh, phương pháp mới để chẩn đoán ung thư bàng quang không xâm lấn cơ

  • PDF.

Bs Trần Lê Pháp - 

1. Tổng quan về nội soi bàng quang

Nội soi bàng quang là phương pháp quan trọng trong chẩn đoán và theo dõi ung thư bàng quang, đặc biệt là ung thư bàng quang không xâm lấn cơ (NMIBC). Truyền thống, nội soi bàng quang bằng ánh sáng trắng (White-Light Cystoscopy - WLC) được xem là tiêu chuẩn vàng. Tuy nhiên, do khả năng phát hiện tổn thương hạn chế, phương pháp này có thể bỏ sót các tổn thương nhỏ hoặc dạng carcinoma in situ (CIS).

Nội soi bàng quang với ánh sáng xanh (Blue-Light Cystoscopy - BLC) là một phương pháp cải tiến, giúp tăng độ nhạy trong phát hiện ung thư bàng quang. Công nghệ này sử dụng chất cản quang như hexaminolevulinate (HAL) hoặc 5-aminolevulinic acid (5-ALA), giúp mô ung thư phát sáng đỏ khi được chiếu ánh sáng xanh, qua đó cải thiện khả năng phát hiện tổn thương.

2. Cơ chế hoạt động của nội soi bàng quang với ánh sáng xanh

Nội soi bàng quang ánh sáng xanh hoạt động dựa trên nguyên lý quang động học. Sau khi bệnh nhân được đặt một chất tiền quang động vào bàng quang (HAL hoặc 5-ALA), các tế bào ung thư sẽ hấp thụ chất này và chuyển hóa thành protoporphyrin IX (PPIX). Khi chiếu ánh sáng xanh với bước sóng 380-450 nm, PPIX sẽ phát huỳnh quang màu đỏ, giúp bác sĩ dễ dàng xác định vùng tổn thương.

nsbangquang

Đọc thêm...

Chiến lược điều trị ung thư biểu mô vòm họng giai đoạn tiến xa

  • PDF.

Bs CK2 Trần Quốc Chiến - 

1. ĐẶT VẤN ĐỀ

Ung thư biểu mô vòm họng (NPC – Nasopharyngeal carcinoma) là một lại ung thư hiếm gặp có tỷ lệ mắc chuẩn theo tuổi trên toàn thế giới < 1/100.000, với 133.354 trường hợp mắc mới và 80.000 trường hợp tử vong mỗi năm ở toàn bộ 185 quốc gia vào năm 2020. Ở Đông Nam Á, ung thư biểu mô vòm họng có tỷ lệ mắc mới hàng năm là 10 - 30/100.000. Với những vùng có tỷ lệ hiện mắc cao (chẳng hạn như Bắc Mỹ, Đông Á), tỷ lệ mắc mới là từ 4 - 12/100.000 dân, thay đổi khác nhau theo từng vùng. Bởi do những thay đổi về phong cách sống và môi trường, tỷ lệ mắc mới ở Hong Kong, một vùng có tỷ lệ hiện mắc cao, đã sụt giảm 30% trong 20 năm qua so với những năm 1980, và tỷ lệ mắc mới đang sụt giảm trên toàn thế giới. Tỷ lệ sống còn cũng tăng lên do sự cải thiện về chẩn đoán hình ảnh, phát hiện sớm thông qua sàng lọc khối u và sự kiểm soát khối u cũng đã được cải thiện với việc áp dụng kỹ thuật xạ trị điều biến cường độ (IMRT – Intensity Modulated Radiotherapy). Tuy nhiên, 75,4% các trường hợp NPC vẫn còn được phát hiện ở giai đoạn tiến xa (giai đoạn III - IV). Tỷ lệ sống còn 10 năm đối với giai đoạn III và IV là 74 - 79% và 46 - 56%, lần lượt theo thứ tự. Tỷ lệ sống còn 10 năm đã được báo cáo là đặc biệt kém ở các trường hợp NPC giai đoạn IV [4], [7].

Đặc điểm của NPC bao gồm khối u có liên quan với vi rút Epstein-Barr (EBV – Epstein-Barr virus) và tỷ lệ hiện mắc cao ở một số vùng. NPC được phân loại theo mô bệnh học thành các loại tế bào sừng hóa, không sừng hóa và tế bào đáy. Trong các loại tế bào không sừng hóa, 69 - 93% các khối u được biết là có liên quan với EBV. Nhiễm vi rút sinh u nhú ở người (HPV – Human papilloma virus) cũng được biết là có liên quan với NPC trong một vài báo cáo, tuy nhiên, đáp ứng với điều trị thì vẫn còn lẫn lộn. Theo đó, hướng dẫn của Mạng lưới ung thư toàn diện Hoa Kỳ (NCCN – National Comprehensive Cancer Network) không khuyến nghị xét nghiệm nhiễm HPV. Sinh bệnh học của các khối u không liên quan với vi rút thì vẫn còn không rõ [4].

head-and-neck-cancers

Xem tiếp tại đây

Chiến lược đa mô thức nhằm chống lại sự giãn mạch ở bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết

  • PDF.

Bs Nguyễn Hoàng Kim Ngân - 

Việc giới hạn tổn thương cơ quan liên quan đến sốc nhiễm trùng đòi hỏi phải điều trị kháng khuẩn thích hợp, kiểm soát nguồn bệnh đầy đủ và khôi phục sự ổn định tim mạch, khôi phục lưu lượng máu đến các cơ quan bị suy. Ổn định huyết động thường đạt được thông qua việc hồi sức dịch bù trừ và dùng các catecholamine sớm, cụ thể là norepinephrine là liệu pháp đầu tay. Tuy nhiên, một số bệnh nhân có tình trạng liệt mạch đặc biệt nghiêm trọng; trạng thái sức cản hệ thống thấp dẫn đến tụt huyết áp mặc dù cung lượng tim bình thường hoặc tăng. Bệnh nhân bị sốc nhiễm trùng có đáp ứng với adrenergic thì có kết cục tốt hơn, trong khi những bệnh nhân không đáp ứng với catecholamine liều cao có kết cục xấu. Trong tình huống này, đáp ứng với liều norepinephrine tiêu chuẩn có thể không khôi phục lại đủ lượng máu đến các cơ quan quan trọng và liều cao catecholamine thường được dùng để đảo ngược tình trạng sốc, với các mức độ thành công khác nhau.

Liều cao norepinephrine liên quan độc lập với việc tăng tỷ lệ tử vong ở đơn vị chăm sóc đặc biệt (ICU). Việc dùng các tác nhân hệ catecholaminergic để đảo ngược tình trạng sốc có liên quan đến các tác dụng phụ, bao gồm loạn nhịp tim nhanh và co mạch quá mức dẫn đến thiếu máu cục bộ mô. Tổn thương cơ quan trực tiếp cũng có thể xảy ra với nhiều tác động lên các con đường miễn dịch, chuyển hóa, sinh nhiệt và đông máu, và phần lớn điều này không được theo dõi lâm sàng hoặc nhận biết tại giường. Các tác dụng phụ này có thể góp phần kết cục xấu của bệnh nhân.

Để hạn chế khả năng xảy ra các tác dụng đã đề cập ở trên và tối đa hóa khả năng đạt được tình trạng huyết động nhằm khôi phục dòng máu đến các cơ quan quan trọng, một phương pháp thay thế cho việc dùng liều cao của một loại thuốc duy nhất đã được đề xuất cho những bệnh nhân bị nhiễm trùng huyết, đó là sự kết hợp thuốc vận mạch (còn được gọi là "chiến lược điều trị đa mô thức"). Bài tổng quan này sẽ trình bày cách tiếp cận này. Bài viết thảo luận về một số loại thuốc đã được đưa ra để điều trị phối hợp. Các cơ chế hoạt động và các nghiên cứu trong phòng thí nghiệm và lâm sàng hỗ trợ cho sự phát triển của chiến lược đa mô thức này cũng được trình bày. Mặc dù rất quan tâm, nhưng chúng tôi không trình bày ở đây vai trò tiềm năng của thuốc chẹn beta-1 và thuốc chủ vận thụ thể alpha-2-adrenergic, mặc dù cả hai loại này đều có liên quan trong việc giảm liều thuốc vận mạch ở những bệnh nhân bị sốc nhiễm trùng trong các nghiên cứu lâm sàng. Tác dụng của những loại thuốc này đối với nhu cầu sử dụng thuốc làm vận mạch cần được xác nhận trong các nghiên cứu trong tương lai do mức độ không chắc chắn cao. Trong khi tác dụng của steroid đối với đáp ứng mạch máu đối với thuốc vận mạch cũng được mô tả ở nơi khác, nhưng chúng không được tóm tắt trong bài tổng quan này, mặc dù việc kết hợp điều trị giữa steroid và thuốc làm vận mạch được khuyến nghị trong hướng dẫn của SSC.

damothuc1

Xem tiếp tại đây

Cập nhật hướng dẫn của Hội Niệu khoa Châu Âu năm 2024 về ung thư niệu đạo nguyên phát

  • PDF.

Bs Trần Lê Pháp - 

I. DỊCH TỄ HỌC VÀ NGUYÊN NHÂN

1.1 Dịch tễ học

Ung thư niệu đạo nguyên phát được coi là một loại ung thư hiếm gặp, chiếm < 1% trong số tất cả các bệnh ác tính về đường sinh dục tiết niệu. Năm 2013, tỷ lệ mắc ung thư niệu đạo ở 28 quốc gia Liên minh Châu Âu là 3.986 ca với tỷ lệ mắc mới hàng năm ước tính là 1.504 ca, với tỷ lệ mắc nam/nữ là 2,9: 1. Tương tự như vậy, trong một phân tích cập nhật của cơ sở dữ liệu Giám sát, Dịch tễ học và Kết quả cuối cùng (Surveillance, Epidemiology and End Results(SEER)) (2004–2016), tỷ lệ mắc ung thư niệu đạo nguyên phát đạt đỉnh ở nhóm tuổi > 75 (7,6/triệu). Tỷ lệ chuẩn hóa theo độ tuổi là 4,3/triệu ở nam giới và 1,5/triệu ở nữ giới và hầu như không đáng kể ở những người < 55 tuổi (0,2/triệu). Sau khi so sánh khối u và đặc điểm của bệnh nhân, phụ nữ có giai đoạn bệnh cao hơn và tỷ lệ tử vong do ung thư cao hơn.

1.2 Nguyên nhân

Đối với ung thư niệu đạo nguyên phát ở nam giới, nhiều yếu tố tiền ung thư đã được báo cáo, bao gồm hẹp niệu đạo, kích ứng mãn tính sau khi đặt ống thông tiểu, thông niệu đạo ngắt quãn, liệu pháp chiếu xạ chùm tia ngoài, cấy hạt phóng xạ, viêm niệu đạo mãn tính, viêm niệu đạo sau các bệnh lây truyền qua đường tình dục (tức là, sùi mào gà liên quan đến vi-rút papilloma ở người 16) và xơ cứng liken. Ở ung thư niệu đạo nữ, túi thừa niệu đạo và nhiễm trùng đường tiết niệu tái phát có liên quan đến ung thư niệu đạo nguyên phát. Lưới treo niệu đạo giữa không liên quan đến việc tăng nguy cơ ung thư niệu đạo nguyên phát. Ung thư biểu mô tế bào sáng cũng có thể gây ra ung thư có nguồn gốc bẩm sinh.

k nieudao

Xem tiếp tại đây

Lần cập nhật cuối lúc Thứ năm, 21 Tháng 11 2024 09:23

Chấn thương thận

  • PDF.

Bs. Nguyễn Hồng Ga – 

Chấn thương thận có thể gây tổn thương nhu mô hoặc mạch máu thận, có thể gây chảy máu hoặc tổn thương hệ thống ống góp với khả năng rò rỉ nước tiểu.

Chiếm 1-5% trong số tất cả trường hợp chấn thương. Trong chấn thương bụng kín, chấn thương thận chiếm khoảng 8-10%, trong khi đó ở chấn thương xuyên thấu, chấn thương thận chiếm khoảng 6%. 86% các trường hợp chấn thương thận thường có tổn thương kèm theo.

Bệnh nhân có chấn thương ở ngực, bụng và xương chậu có nguy cơ chấn thương thận cao hơn, nên cần chú ý ở những bệnh nhân này. Ngoài ra cần nhận ra những bệnh nhân có bất thường hay bệnh lý về thận từ trước như u thận, ứ nước, thận đa nang,… vì họ có khả năng bị chấn thương thận đáng kể dù chỉ bị chấn thương nhẹ.

Có thể nghi ngờ chấn thương thận dựa trên tiền sử và thăm khám lâm sàng ở bệnh nhân, nhưng cần giải quyết tình trạng cấp cứu đối với bệnh nhân huyết động không ổn định, nên tiến hành phẫu thuật trong phòng mổ, trong khi bệnh nhân huyết động ổn định có thể được chẩn đoán xác định thông qua các phương pháp hình ảnh.

Các tổn thương cơ bản: đụng giập, đường vỡ nhu mô thận, rách vỡ đường bài xuất, tổn thương mạch máu (bao gồm: đụng giập mạch máu trực tiếp, vết thương mạch máu hoàn toàn hay không hoàn toàn, các tổn thương nhu mô hay gây ra huyết khối làm tắc các mạch máu nhỏ), máu tụ, ngoài ra còn tổn thương các cơ quan khác kèm theo.

ctthan

Xem tiếp tại đây

You are here Đào tạo Tập san Y học