Bs Huỳnh Công -
ĐẶT VẤN ĐỀ
Gần đây, xu hướng kết hôn và sinh con càng ngày càng muộn. Theo Tổng cục thống kê năm 2022, tuổi kết hôn trung bình lần đầu trên cả nước là 26,9 tuổi (nam 27,3 tuổi, nữ 26,5 tuổi). So với năm 2000, con số này đã tăng 4,8 tuổi đối với nam và 3,3 tuổi đối với nữ. Kèm theo đó, mối lo lắng về hiếm muộn cũng ngày càng tăng. Các chị em phụ nữ, đặc biệt là những phụ nữ kết hôn muộn, mong muốn có một chỉ số dự báo về khả năng sinh sản trong tương lai. Trên các phương tiện truyền thông và các trang mạng xã hội, AMH (Anti-Mullerian Hormone) được đưa ra như một chỉ số dự báo đáng tin cậy về chức năng sinh sản phụ nữ. Tuy nhiên AMH có thật sự hiệu quả, chúng ta cùng tìm hiểu ngay sau đây.
AMH LÀ GÌ?
Từ những năm 1940, A. Jost đã tìm ra một loại Protein, được hình thành trong tinh hoàn của động vật có vú, bao gồm cả con người và khác với testosterone. Nó các nhiệm vụ làm thoái lui ống Mullerian, nên nó được đặt tên là Anti-Mullerian Hormone (AMH) và hơn 40 năm sau thì AMH và các thụ thể của nó mới được phân lập. AMH hay còn gọi là hormone ức chế Mullerian, là một hormone glycoprotein thuộc siêu họ transforming growth factor beta (TGF-β) nó có vai trò chính là định hình giới tính trong thời kỳ bào thai nam giới và điều hòa quá trình chiêu mộ và phát triển nang noãn ở phụ nữ . AMH là một homodimer peptide, có khối lượng phân tử là 140 kDa, bao gồm hai tiểu đơn vị glycoprotein giống hệt nhau, được nối với nhau bởi các cầu nối disulfide. AMH liên kết với thụ thể loại 2 – AMHR2, thụ thể này sẽ phosphoryl hóa thụ thể loại I – AMHR1 theo con đường tín hiệu TGF-β.
Hình 1. Phân tử AMH liên kết với thụ thể của nó.
(Nguồn: http://www.pymol.org)
VAI TRÒ SINH LÝ CỦA AMH
AMH được mã hóa bởi gen cùng tên nằm trên nhanh ngắn của NST số 19, gen này có cấu tạo từ 2750 nucleotide. Trong khi đó. thụ thể của nó được mã hóa bởi gen AMHR2 nằm trên NST số 12. Trong giai đoạn bào thai, AMH được tổng hợp bởi các tế bào Sertoli của tinh hoàn thai nhi đã ở giai đoạn đầu phát triển phôi thai. Vào khoảng tuần thứ 7 với sự có mặt của NST Y, AMH tham gia vào quá trình biệt hóa cơ quan sinh dục thông qua con đường tín hiệu TGF-β. Đúng như tên gọi của nó, AMH sẽ làm thoát triển ống Muller tạo điều kiện cho cơ quan sinh dục nam phát triển.
Ở nữ giới, AMH được tiết ra bởi các tế bào hạt của nang noãn từ sơ cấp tiền hốc và hốc nhỏ. AMH gần như không còn được tiết ra bởi các nang có kích thước trên 8mm, nó được tiết ra nhiều nhất bởi các nang noãn kích thước 2- 7mm. AMH được phát hiện trong huyết thanh từ giai đoạn chu sinh cho đến khi mãn kinh, nồng độ AMH trong máu của nữ thấp hơn nhiều so với nam giới. Người ta nhận thấy AMH tham gia vào quá trình chiêu mộ nang noãn thông qua con đường phosphatidylinositol 3-kinase/protein kinase B (PI3K/Akt). Con đường PTEN/PI3K/Akt cùng với AMH là các yếu tố điều hòa quan trọng nhất của tiến trình chiêu mộ các noãn nang nguyên thủy.
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN NỒNG ĐỘ CỦA AMH
Trong cơ thể nữ giới AMH được tiết ra hầu hết bởi các nang noãn có kích thước từ 2-7 mm hay còn gọi là các nang noãn sơ cấp đến nang thứ cấp sớm. Các nang noãn này chưa lệ thuộc vào FSH vì vậy nồng độ AMH được ghi nhận có sự chênh lệch rất thấp trong các thời gian khác nhau của chỳ kỳ buồng trứng. Cũng theo thuyết này, nồng độ của AMH trong huyết thanh phụ thuộc trực tiếp vào số lượng các nang noãn giai đọan này hay đúng hơn là phụ thuộc trực tiếp vào số lượng tế bào hạt của các nang noãn được chiêu mộ ở giai đoạn sớm. Vì vậy, các nguyên nhân làm tăng hay giảm số lượng của nhóm nang noãn hay đúng hơn là số lượng tế bào hạt ở giai đoạn noãn nang đều ảnh hưởng đến nồng độ huyết thanh trong máu của người phụ nữ. Trong đó các nguyên nhân có thể làm gia tăng nồng độ AMH trong huyết thanh bao gồm PCOS, ung thư buồng trứng loại tế bào hạt... và các nguyên nhân thường gặp làm giảm nồng độ AMH trong huyết thanh có thể kể đến như suy giảm dự trữ buồng trứng do suy buồng trứng sớm hoặc do hóa trị, xạ trị.... Người ta còn cho rằng việc sử dụng thuốc tránh thai nội tiết cũng làm ảnh hưởng đến nồng độ AMH. Một vài nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng so với những người sử dụng biện pháp tránh thai không nội tiết tố, AMH ở những người sử dụng COCs ( thuốc viên tránh thai phối hợp) thấp hơn 31,1% [khoảng tin cậy (CI) 95%; p < 0,001], thấp hơn 35,6% ở người dùng POPs ( viên thuốc tránh thai chỉ chứa Progestin) (95% CI ; p < 0,001) và thấp hơn 17,1% ở người dùng LNG-IUS (vòng tránh thai nội tiết Lenovonorgestrel). So với những người sử dụng biện pháp tránh thai không nội tiết tố, siêu âm số lượng nang noãn thứ cấp ( Antra Follicle Count- AFC) cũng thấp hơn 31,3% ở những người sử dụng COCs (95% CI; p < 0,001) và thấp hơn 29,7% ở những người sử dụng POPs (p < 0,001); không có sự khác biệt đáng kể giữa những người sử dụng LNG-IUS. Thể tích buồng trứng giảm hơn 50% ở những người sử dụng COCs ( p < 0,001) nhưng không thay đổi ở những người sử dụng POPs và LNG-IUS. Gần đây một vài nghiên cứu cho rằng tiêm PRP (huyết tương giàu tiểu cầu) trong buồng trứng đã cải thiện các dấu hiệu dự trữ buồng trứng với việc tăng số lượng nang noãn thứ cấp đầu chu kỳ, tăng nồng độ huyết thanh của AMH, Estradiol ngày 3 và giảm nồng độ huyết thanh FSH ngày 3. Ngoài ra, phương pháp điều trị này đã cải thiện kết quả hỗ trợ sinh sản thông qua việc tăng tổng số tế bào trứng, số lượng noãn trưởng thành ( Metaphase II), số lượng phôi giai đoạn phân tách và số lượng phôi ngày 5 ở phụ nữ đáp ứng kém buồng trứng.
Bên cạnh đó, nồng độ AMH có mối tương quan phức tạp với tuổi tác và chu kỳ kinh nguyệt ở phụ nữ. Nồng độ AMH (Anti-Müllerian Hormone) trong huyết thanh đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá chức năng buồng trứng và dự trữ buồng trứng ở phụ nữ. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa AMH và các yếu tố sinh lý như tuổi tác và chu kỳ kinh nguyệt lại phức tạp hơn so với suy nghĩ ban đầu. Nồng độ AMH có mối tương quan nghịch với tuổi tác, nghĩa là AMH cao nhất ở phụ nữ trẻ và giảm dần theo thời gian. Điều này phản ánh sự suy giảm dự trữ nang trứng nguyên thủy theo tuổi tác. Mức AMH cao nhất thường đạt được ở độ tuổi 25, sau đó bắt đầu giảm đến mức không thể phát hiện được khi mãn kinh. Tuy nhiên, tốc độ suy giảm AMH có thể khác nhau giữa các nhóm dân tộc. Ví dụ, phụ nữ Trung Quốc có mức AMH cao hơn phụ nữ châu Âu ở tuổi 25, nhưng mức AMH của họ giảm nhanh hơn, dẫn đến mức AMH thấp hơn ở độ tuổi 30 và 45. Ngược lại, phụ nữ Mỹ gốc Phi có mức AMH thấp hơn phụ nữ Da trắng nhưng tốc độ suy giảm AMH chậm hơn. Khác với quan điểm ban đầu cho rằng AMH tương đối ổn định trong chu kỳ kinh nguyệt, nghiên cứu gần đây cho thấy AMH có thể thay đổi đáng kể, lên tới 20,7%. Sự thay đổi này không theo mô hình cụ thể nào, tương tự như FSH hay estradiol, mà phụ thuộc vào mức AMH cơ bản và sự thay đổi AFC trong chu kỳ kinh nguyệt. Phụ nữ có mức AMH cơ bản cao hơn có xu hướng có biến động AMH trong chu kỳ kinh nguyệt cao hơn. Biến đổi giữa các chu kỳ của AMH cũng có thể dao động rộng, từ 28% đến 163%, tùy thuộc vào phương pháp xét nghiệm AMH sử dụng. Sự thay đổi AMH theo tuổi tác và chu kỳ kinh nguyệt có thể ảnh hưởng đến độ chính xác của đánh giá dự trữ buồng trứng dựa trên một phép đo AMH đơn lẻ. Do đó, cần thận trọng khi giải thích kết quả xét nghiệm AMH và cân nhắc các yếu tố khác như tuổi tác, giai đoạn chu kỳ kinh nguyệt và dân tộc. Việc theo dõi AMH nhiều lần trong chu kỳ kinh nguyệt có thể cung cấp thông tin chính xác hơn về dự trữ buồng trứng và hỗ trợ đưa ra quyết định điều trị phù hợp trong các trường hợp như kích thích buồng trứng dành riêng cho từng cá nhân. Nồng độ AMH là một công cụ hữu ích để đánh giá chức năng buồng trứng và dự trữ buồng trứng ở phụ nữ. Tuy nhiên, cần hiểu rõ mối quan hệ phức tạp giữa AMH với tuổi tác và chu kỳ kinh nguyệt để giải thích kết quả xét nghiệm chính xác và đưa ra quyết định điều trị phù hợp.
CÁC PHƯƠNG PHÁP XÉT NGHIỆM AMH HIỆN CÓ
Hiện nay, có nhiều phương pháp xét nghiệm AMH khác nhau, nhưng phổ biến nhất là hai loại:
Xét nghiệm AMH dựa trên phương pháp miễn dịch:
Đây là phương pháp xét nghiệm AMH phổ biến nhất, sử dụng kháng thể để liên kết với hormone AMH trong máu. Mức độ liên kết được đo lường và sau đó được chuyển đổi thành nồng độ AMH ng/ml. Hai loại xét nghiệm AMH dựa trên phương pháp miễn dịch phổ biến nhất là:
- Xét nghiệm Access AMH: Do Beckman Coulter sản xuất.
- Xét nghiệm Elecsys AMH: Do Roche Diagnostics sản xuất.
Ngoài ra, còn có một số xét nghiệm AMH dựa trên phương pháp miễn dịch khác, do các công ty khác sản xuất.
Xét nghiệm AMH bằng phương pháp sắc ký khí khối phổ (GC/MS):
Phương pháp này ít phổ biến hơn so với xét nghiệm AMH dựa trên phương pháp miễn dịch, nhưng nó có thể đo lường được nhiều dạng AMH khác nhau, bao gồm proAMH và AMHN. Tuy nhiên, xét nghiệm AMH bằng phương pháp GC/MS thường đắt đỏ hơn và ít được sử dụng rộng rãi hơn so với xét nghiệm AMH dựa trên phương pháp miễn dịch.
Trong những năm qua, cả xét nghiệm miễn dịch thủ công và tự động đã được phát triển để đo nồng độ AMH huyết thanh và các xét nghiệm khác nhau hiện đang được sử dụng trong thực hành lâm sàng. Những xét nghiệm này sử dụng kháng thể liên kết với các vùng AMH cụ thể. Do đó, tổng nồng độ AMH đo được trong tuần hoàn phụ thuộc vào sự hiện diện của các dạng đồng phân AMH cụ thể và khả năng của các kháng thể được sử dụng để phát hiện các dạng đồng phân này.
Hình 6. Vị trí gắn các thụ thể trên các đồng phân AMH trong các xét nghiệm ELISA của các hãng.
(Nguồn: Researchgate.net/figure)
Hiện nay, không có tiêu chuẩn quốc tế cho việc đo AMH, dẫn đến sự khác biệt giữa các nhà sản xuất xét nghiệm và phương pháp đo. Năm 2018, WHO đã lên kế hoạch tạo ra một chuẩn thống nhất về xét nghiệm AMH nhưng đến nay vẫn chưa thể đưa vào khuyến cáo lâm sàng.
VAI TRÒ CỦA AMH
Không như quan điểm trước đây về sự hằng định của AMH trong máu của người phụ nữ, AMH có biến động tương đối, thay đổi theo tuổi, theo chu kỳ kinh nguyệt, thuốc đang dùng và các yếu tố nội, ngoại cảnh khác. Vậy, sử dụng duy nhất AMH để đánh giá khả năng sinh sản của người phụ nữ liệu có thỏa đáng không? Theo ASRM (Hiệp hội sinh sản Hoa Kỳ) năm 2020, việc sử dụng các test đánh giá dự trữ buồng trứng bao gồm AMH không dự đoán khả năng sinh sản của phụ nữ. Một số nghiên cứu đã được tiến hành để đánh giá giá trị của các dấu hiệu dự trữ buồng trứng như các dấu hiệu của tiềm năng sinh sản hiện tại. Trong các nghiên cứu theo dõi triển vọng, các dấu hiệu dự trữ buồng trứng là những yếu tố dự báo kém về tiềm năng sinh sản khi đo bằng khả năng sinh sản (xác suất thụ thai trong một chu kỳ kinh nguyệt nhất định), xác suất mang thai tích lũy hoặc tỷ lệ vô sinh.
Thử nghiệm EAGER (Ảnh hưởng của Aspirin trong thai kỳ và sinh sản) đã chọn những phụ nữ từ 18 đến 40 tuổi có tiền sử sẩy thai một lần hoặc nhiều lần. Những phụ nữ có mức AMH thấp (<1 ng/mL) có tỷ lệ mang thai tích lũy tương tự như những phụ nữ có giá trị bình thường (1,0–3,5 ng/mL). Nghiên cứu Time to Conceive, bao gồm một nhóm đối tượng triển vọng gồm 750 phụ nữ trong độ tuổi 30–44 không có tiền sử hoặc yếu tố nguy cơ vô sinh , phát hiện ra rằng những phụ nữ có mức AMH thấp (<0,7 ng/mL) hoặc giá trị FSH cao (>10 IU/L) có tỷ lệ mang thai tích lũy tương tự sau 6 và 12 chu kỳ cố gắng mang thai so với những phụ nữ có mức bình thường. Tương tự như vậy, các dấu hiệu dự trữ buồng trứng không dự đoán được khả năng thụ thai sau các chu kỳ thụ tinh nhân tạo bằng tinh trùng hiến tặng không dùng thuốc.
Vai trò thật sự của AMH và các test dự trữ buồng trứng khác hiện nay được chấp nhận là khả năng dự báo đáp ứng buồng trứng với các phác đồ kích thích buồng trứng. AMH và AFC thường được xem xét như các biến tuyến tính trong các mô hình đáp ứng liều lượng. Mặc dù cả hai đều tiếp tục cho thấy triển vọng tuyệt vời trong việc dự đoán phản ứng của buồng trứng trong IVF, dữ liệu không hỗ trợ việc sử dụng giá trị thấp để ngăn cản hoặc từ chối điều trị. Một phân tích dữ liệu quốc gia đánh giá hơn 5.000 chu kỳ trong đó mức AMH của bệnh nhân cực kỳ thấp (<0,16 ng / mL) cho thấy 54% chu kỳ đã bị hủy, 50,7% chu kỳ dẫn đến ba hoặc ít hơn ba trứng và 25% không có phôi để chuyển; tỷ lệ sinh sống là 9,5% cho mỗi lần bắt đầu chu kỳ (20,5% cho mỗi lần chuyển). Do đó, các giá trị AMH cực thấp có thể được sử dụng để tư vấn phù hợp cho phụ nữ về phản ứng và sản lượng dưới mức tối ưu, nhưng không nên sử dụng để từ chối điều trị.
BỆNH NHÂN NÀO NÊN XÉT NGHIỆM DỰ TRỮ BUỒNG TRỨNG?
Khi chăm sóc một cặp vợ chồng bị vô sinh, các bác sĩ lâm sàng sử dụng các yếu tố như tuổi tác và chẩn đoán để tư vấn cho từng bệnh nhân và điều chỉnh kế hoạch điều trị. Mục tiêu của xét nghiệm dự trữ buồng trứng là bổ sung thông tin tiên lượng vào quá trình tư vấn và lập kế hoạch để giúp các cặp vợ chồng lựa chọn giữa các phương án điều trị, vì xét nghiệm dự trữ buồng trứng chỉ kiểm tra số lượng chứ không phải chất lượng của nhóm tế bào trứng còn lại. Tuy nhiên, điều quan trọng cần nhấn mạnh là xét nghiệm dự trữ buồng trứng không phải là tiêu chí duy nhất để từ chối bệnh nhân tiếp cận các công nghệ hỗ trợ sinh sản hoặc các phương pháp điều trị khác. Bằng chứng về đáp ứng buồng trứng kém không nhất thiết đồng nghĩa với việc không có khả năng thụ thai. Không nên sử dụng các dấu hiệu dự trữ buồng trứng làm xét nghiệm khả năng sinh sản cho những phụ nữ không bị vô sinh hoặc chưa được xét nghiệm khả năng sinh sản. Do đó, không nên sử dụng các dấu hiệu dự trữ buồng trứng để thúc đẩy việc bảo quản đông lạnh trứng theo kế hoạch. Các quyết định liên quan đến việc bảo quản đông lạnh trứng phải dựa trên kế hoạch sinh sản và độ tuổi của phụ nữ. Độ tuổi là yếu tố dự báo thành công sinh sản mạnh hơn nhiều so với dự trữ buồng trứng. Tất cả các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe được khuyến khích trao đổi với bệnh nhân về kế hoạch sinh sản của họ ở mọi giai đoạn của cuộc sống. Việc mở ra cuộc đối thoại này và giáo dục bệnh nhân sẽ giúp họ dễ dàng đưa ra quyết định hơn.
KẾT LUẬN
AMH và các xét nghiệm dự trữ buồng trứng không có ý nghĩa trong việc dự đoán khả năng mang thai trong tương lai của người phụ nữ. các xét nghiệm này không nên làm tiêu chí loại trừ các bệnh nhân hiêm muộn tiếp cận với các phương pháp điều trị. AMH và AFC là hai xét nghiệm dự trữ buồng trứng đáng tin cậy nhất hiện nay, chúng có giá trị trong phân loại nhóm bệnh nhân hiếm và xây dựng các phác đồ kích thích buồng trứng một cách cá nhân hóa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Lan VTN, Luân Âu. Y Học Sinh Sản Đại Cương. Nhà xuất bản Y Học; 2020:150- 166:chap 4. Vai trò cốt lõi của hệ trục hạ đồi - tuyến yên - buồng trứng trong sinh sản ở loài người.
- Moolhuijsen LME, Visser JA. Anti-Müllerian Hormone and Ovarian Reserve: Update on Assessing Ovarian Function. J Clin Endocrinol Metab. Nov 1 2020;105(11):3361-73. doi:10.1210/clinem/dgaa513
- Li HWR, Robertson DM, Burns C, Ledger WL. Challenges in Measuring AMH in the Clinical Setting. Front Endocrinol (Lausanne). 2021;12:691432. doi:10.3389/fendo.2021.691432
- Amer S, James C, Al-Hussaini TK, Mohamed AA. Assessment of Circulating Anti- Müllerian Hormone in Women Using Hormonal Contraception: A Systematic Review. J Womens Health (Larchmt). Jan 2020;29(1):100-110. doi:10.1089/jwh.2019.7733
- Steiner AZ, Pritchard D, Stanczyk FZ, Kesner JS, Meadows JW, Herring AH, et al. Association between biomarkers of ovarian reserve and infertility among older women of reproductive age. JAMA 2017;318:1367–76.
- Ripley M, Lanes A, Leveille MC, Shmorgun D. Does ovarian reserve predict egg quality in unstimulated therapeutic donor insemination cycles? Fertil Steril 2015;103:1170–5.
- Scott RT Jr, Elkind-Hirsch KE, Styne-Gross A, Miller KA, Frattarelli JL. The predictive value for in vitro fertility delivery rates is greatly impacted by the method used to select the threshold between normal and elevated basal follicle-stimulating hormone. Fertil Steril 2008;89:868–78.
- Landersoe SK, Forman JL, Birch Petersen K, et al. Ovarian reserve markers in women using various hormonal contraceptives. Eur J Contracept Reprod Health Care. Feb 2020;25(1):65-71. doi:10.1080/13625187.2019.1702158
- Vahabi Dastjerdi M, Sheibani S, Taheri M, et al. Efficacy of intra-ovarian injection of autologous platelet-rich plasma in women with poor responders: a systematic review and meta-analysis. Arch Gynecol Obstet. Apr 8 2024;doi:10.1007/s00404-024-07442-0
- Picard JY, Benarous R, Guerrier D, Josso N, Kahn A. Cloning and expression of cDNA for anti-müllerian hormone. Proc Natl Acad Sci U S A. Aug 1986;83(15):5464-8. doi:10.1073/pnas.83.15.5464
- 12/09/2024 11:45 - Gói MINUTES trong 30 phút đầu tiếp cận sốc tuần ho…
- 23/08/2024 11:47 - Điều trị ung thư biểu mô tế bào gan giai đoạn trun…
- 18/08/2024 08:36 - Suy giáp trong thai kỳ
- 07/08/2024 21:36 - Cập nhật hướng dẫn của Hiệp hội tim mạch Hoa Kỳ (A…
- 24/07/2024 20:12 - Đa ối: Bệnh nguyên- Chẩn đoán- Xử trí
- 03/07/2024 14:39 - Thai bám sẹo mổ lấy thai – Cập nhật chẩn đoán và …
- 23/06/2024 21:01 - Khuyến nghị của FIGO 2023 thực hành về kỹ thuật mổ…
- 22/05/2024 21:16 - Bóc tách động mạch chủ cấp Stanford B: một số vấn …
- 21/05/2024 16:01 - Kháng nội tiết trong điều trị ung thư vú: Cơ chế v…
- 23/04/2024 10:42 - Những thách thức về hô hấp và quản lý thông khí ở …