• Phone: 0235.3851.429
  • Hotline: 19009095
  • Thông tin:

dieuhanhtructuyen

Đào tạo NCKH

Sinh lý cơ sở dịch truyền và nội mô mạch máu

  • PDF.

Bs CK1 Huỳnh Minh Thảo -  

I. Tổng quan:

Liệu pháp truyền dịch là một thực hành lâm sàng phát triển nhanh chóng nhưng không chính xác dựa trên các giả định rộng rãi, phép ngoại suy từ loài này sang loài khác, bằng chứng thực nghiệm lỗi thời và sở thích cá nhân. Mặc dù được công nhận rộng rãi là liệu pháp chính trong y học cho người và thú y, nhưng liệu pháp truyền dịch không phải lúc nào cũng lành tính và có thể gây ra tác hại đáng kể do quá tải dịch, làm tăng tỷ lệ mắc bệnh và tử vong của bệnh nhân. Cũng như các dược chất khác, chất lỏng khi đưa vào cơ thể có tác dụng sinh lý nên được coi là “thuốc”.

dichtruyen

Xem tiếp tại đây

Lần cập nhật cuối lúc Thứ bảy, 13 Tháng 5 2023 11:28

Tầm soát bệnh lý tuyến giáp trong thai kỳ

  • PDF.

Bs Tạ Thanh Uyên - 

Thay đổi sinh lý của tuyến giáp trong thời kỳ mang thai

Hormone tuyến giáp rất cần thiết trong thai kỳ cho cả sự phát triển bình thường của trẻ và sức khỏe của mẹ. Do đó, các rối loạn chức năng tuyến giáp trong thai kỳ cần được chẩn đoán và điều trị sớm giúp tránh được những tác hại không mong muốn cho cả mẹ và con. Khi mang thai, thể tích tuyến giáp tăng tới 10% ở những vùng có đủ iod và lên đến 40% ở những vùng thiếu iod. Sự thay đổi này liên quan đến sự gia tăng tổng hợp hormone tuyến giáp khoảng 50%, nguyên nhân do nhiều yếu tố như thai hoàn toàn phụ thuộc vào hormone tuyến giáp của mẹ trong 3 tháng đầu thai kỳ, thai tiết ra men deiodinase loại 3 làm tăng thoái giáng hormone giáp, tăng độ lọc cầu thận làm tăng thải iod qua thận, sự gia tăng đáng kể nồng độ hCG trong thai kỳ làm tăng tổng hợp hormone tuyến giáp do hCG có cấu trúc gần giống với TSH, tăng nồng độ thyroxine binding globulin (TBG) (Hình 1).

giapthai

Hình 1. Những thay đổi chức năng tuyến giáp của mẹ trong thời kỳ mang thai (Korevaar và cs, 2017)

Xem tiếp tại đây

Phân loại O-RADS MRI trong đánh giá khối u phần phụ

  • PDF.

BS. Phan Tuấn Kiệt – 

Tỷ lệ ước tính của các tổn thương phần phụ được tìm thấy trên siêu âm là khoảng 15% trong dân số nói chung. Siêu âm có độ nhạy và đặc hiệu cao để loại trừ khối u phần phụ ác tính, và khi các đặc điểm lành tính kinh điển thấy được, nguy cơ ác tính gần bằng 0%. Tuy nhiên, khi không có các đặc điểm hình ảnh siêu âm kinh điển của nang đơn thuần hoặc nang xuất huyết, u bì hoặc nang lạc nội mạc, khả năng ác tính vẫn có. Khi một tổn thương có các đặc điểm hình ảnh không xác định ở siêu âm, giá trị tiên đoán dương tính (PPV) của ung thư có thể nằm trong khoảng từ 7% đến 50% và khi một tổn thương có các đặc điểm đáng lo ngại về bệnh ác tính, PPV cho ung thư nằm trong khoảng từ 29% đến hơn 50 %.

Chụp cộng hưởng từ (MRI) cung cấp chẩn đoán cụ thể hơn đối với các tổn thương không xác định được bằng siêu âm, làm giảm mức độ nghi ngờ và do đó giảm số ca phẫu thuật được thực hiện đối với các chẩn đoán lành tính ở phụ nữ không có triệu chứng. Ngoài việc loại trừ bệnh ác tính, độ phân giải mô mềm cao và khả năng mô tả thành phần nang khác nhau cho phép đánh giá chính xác hơn loại tổn thương. Hơn nữa, khả năng đa mặt phẳng của MRI cho phép đánh giá toàn bộ tổn thương, bất kể kích thước hoặc vị trí tổn thương. Điều này đặc biệt quan trọng trong trường hợp các tổn thương có nhú nhỏ hoặc các nốt mô mềm và các tổn thương phần phụ lớn, cả hai đều có thể được đánh giá không đầy đủ bằng siêu âm. MRI cũng rất quan trọng trong việc đánh giá một tổn thương có nguồn gốc từ buồng trứng hay không. Theo một nghiên cứu gần đây, trong các tổn thương được gọi là tổn thương buồng trứng trên siêu âm được gởi đi chụp MRI, 10% có nguồn gốc từ các cơ quan khác và được phân loại lại bằng MRI với độ chính xác 97%.

Gần đây, Trường Điện quang Hoa Kỳ (ACR) đã công bố một hệ thống phân tầng nguy cơ và thuật ngữ cho các tổn thương phần phụ. ACR O-RADS MRI bao gồm các thuật ngữ và định nghĩa được tiêu chuẩn hóa để đánh giá và báo cáo các tổn thương phần phụ, hệ thống phân tầng rủi ro O-RADS MRI cũng giúp đưa ra xác suất ác tính của các khối u.

phanloai1

Đọc thêm...

Siêu âm trong Hồi Sức Cấp Cứu

  • PDF.

Bs Đinh Hồng Thảo - 

I. Tóm tắt

1. Mục đích của bài review

Bài viết này tóm tắt ứng dụng và bằng chứng hỗ trợ cho việc sử dụng siêu âm trong ICU.

2. Các phát hiện gần đây

Siêu âm có trọng điểm tại giường (POCUS: Point-of-care ultrasonography) đã được sử dụng rộng rãi bởi các nhà hồi sức trong quản lí bệnh nhân hồi sức do chúng có thể đánh giá nhanh chóng và chính xác nhiều bệnh lí như tràn khí màng phổi, phù phổi, thận ứ nước, tràn máu phúc mạc, huyết khối tĩnh mạch sâu. Siêu âm tim trong hồi sức cơ bản và nâng cao bao gồm cả siêu âm tim qua thực quản được thực hiện thường qui để xác định bệnh nguyên của huyết động không ổn định trong shock không phân biệt được và hướng dẫn thực hiện các liệu pháp tiếp theo. Việc sử dụng POCUS trong đánh giá thể tích dịch vẫn đang còn tranh cãi, các nghiên cứu cho thấy sự biến đổi theo hô hấp của IVC không đánh tin cậy và phân tích tốc độ dòng máu qua van động mạch chủ sau khi thực hiện nghiệm pháp nâng chân thụ động đang trở thành công cụ hứa hẹn nhất.

3. Tổng kết

POCUS cho phép các bác sĩ lâm sàng ở tuyến đầu đưa ra các chẩn đoán và quyết định điều trị theo thời gian thực. Bài viết này sẽ cung cấp cho độc giả 1 bài tổng quan về chủ đề quan trọng này.

POCUS

Xem tiếp tại đây

Lao màng não – não

  • PDF.

Bs Lê Thị Hà – 

Lao là một bệnh truyền nhiễm do vi khuẩn lao (Mycobacterium tuberculosis) gây nên. Bệnh lao có thể gặp ở tất cả các bộ phận của cơ thể, trong đó lao phổi là thể lao phổ biến nhất (chiếm 80 - 85% tổng số ca bệnh) và là nguồn lây chính cho người xung quanh.

I. CHẨN ĐOÁN LAO NGOÀI PHỔI

Lao ngoài phổi là thể lao khó chẩn đoán - do vậy để tiếp cận chẩn đoán, người thầy thuốc trong quá trình thăm khám người bệnh phải hướng tới và tìm kiếm các dấu hiệu của bệnh lao, phân biệt với các bệnh lý ngoài lao khác và chỉ định làm các kỹ thuật, xét nghiệm để từ đó chẩn đoán xác định dựa trên:

- Các triệu chứng, dấu hiệu ở cơ quan ngoài phổi nghi bệnh.

- Luôn tìm kiếm xem có lao phổi phối hợp không, sàng lọc ngay bằng Xquang phổi. Nếu có lao phổi sẽ là cơ sở quan trọng cho chẩn đoán lao ngoài phổi.

- Lấy bệnh phẩm từ các vị trí tổn thương để xét nghiệm:

  • Tìm vi khuẩn bằng kỹ thuật nhuộm soi trực tiếp, nuôi cấy, Xpert MTB/RIF (với bệnh phẩm dịch não tủy, đờm, dịch phế quản, dịch dạ dày, dịch (mủ) các màng, mủ tổn thương hạch, xương, tai, khớp,…).
  • Xét nghiệm mô bệnh, tế bào học xác định hình ảnh tổn thương lao.

- Chẩn đoán lao ngoài phổi đơn thuần không kết hợp với lao phổi thường khó khăn, cần dựa vào triệu chứng nghi lao (sốt về chiều kéo dài, ra mồ hôi ban đêm, sút cân); triệu chứng tại chỗ nơi cơ quan bị tổn thương, nguy cơ mắc lao.

- Mức độ chính xác của chẩn đoán phụ thuộc nhiều vào khả năng phát hiện của các kỹ thuật hỗ trợ như: X-quang, siêu âm, sinh thiết, xét nghiệm vi khuẩn học.

bacteriumtuberculosis

Xem tiếp tại đây

You are here Đào tạo