Bs Phạm Hữu Quang -
Phần 1
1. Giới thiệu
Châm cứu đã là một nghệ thuật chữa bệnh trong y học cổ truyền Trung Quốc trong hơn 2000 năm. Các chứng rối loạn khác nhau có thể được chữa khỏi một cách hiệu quả bằng cách đưa những chiếc kim dài vào các '' huyệt đạo'' đặc biệt trên da của cơ thể bệnh nhân. Bên cạnh Trung Quốc, châm cứu đã lan rộng đến hơn 160 quốc gia và khu vực. Tổ chức Y tế Thế giới khuyến cáo sử dụng phương pháp điều trị bằng châm cứu đối với 43 bệnh. Kể từ khi châm cứu được NIH đồng thuận đề xuất như là một can thiệp điều trị của y học bổ sung (NIH, 1997), phương pháp châm cứu đã được chấp nhận nhiều hơn ở phương Tây.
Trong số các liệu pháp châm cứu, tác dụng giảm đau do châm cứu gây ra đã được sử dụng rộng rãi để làm giảm các cơn đau đa dạng, đặc biệt là đau mãn tính và được gọi là ‘‘Châm cứu giảm đau’’. Liệu châm cứu giảm đau có cơ sở sinh lý học hay chỉ đơn giản là do thôi miên hoặc các tác động tâm lý khác từ lâu đã trở thành tâm điểm tranh luận. Do đó, người ta ngày càng chú ý đến việc khám phá các cơ chế sinh lý và sinh hóa trong quá trình giảm đau bằng châm cứu, đặc biệt là các cơ chế não bộ. Trong những thập kỷ qua, sự hiểu biết của chúng ta về cách bộ não xử lý các tín hiệu do châm cứu gây ra đã phát triển nhanh chóng. Tổng quan này tập trung vào các cơ chế tế bào thần kinh của châm cứu. Trên cơ sở dữ liệu thu được trong những thập kỷ trước và việc sử dụng các kỹ thuật mới đa ngành, nhiều nghiên cứu hơn về cơ chế thần kinh của châm cứu giảm đau chủ yếu quan tâm đến chất nền tế bào, phân tử và hình ảnh chức năng não trong 10 năm qua.

Hình 1. Tăng ngưỡng chịu đau bằng châm cứu tại huyệt ''Hợp cốc'' (LI-4) ở những người tình nguyện (chấm đặc). Ức chế tác dụng giảm đau của châm cứu bằng cách tiêm 2% procaine vào LI-4 ngay trước khi châm cứu (chấm rỗng) (được sửa đổi với sự cho phép từ Research Group, 1973).