• Phone: 0235.3851.429
  • Hotline: 19009095
  • Thông tin:

dieuhanhtructuyen

Đào tạo NCKH

Theo dõi huyết áp động mạch xâm lấn: không chỉ là huyết áp trung bình!

  • PDF.

Bs Nguyễn Thị Liên Hoa - 

Theo dõi huyết áp động mạch

Theo dõi huyết áp động mạch là một thực hành tiêu chuẩn ở những bệnh nhân nặng từ đó cho phép đánh giá huyết áp động mạch trung bình (MAP) chính xác và theo từng nhịp đập, và cũng cung cấp thông tin có giá trị về chức năng tim, tương tác tim phổi, hệ thống động mạch và bệnh lí van tim. Mặc dù một vài hướng dẫn khuyến cáo một mục tiêu MAP trong quá trình hồi sức huyết động ban đầu, chỉ tập trung vào MAP là sự đơn giản hóa quá mức, khi bệnh nhân với với những giá trị tương tự nhau có thế có những khác nhau đáng kể về điều kiện sinh lý bệnh nền.

Do đó, tất cả các thành tố có nguồn gốc từ theo dõi huyết áp động mạch nên được xem xét để quyết định chẩn đoán hoặc điều trị khi đối mặt với suy tuần hoàn cấp, như sẽ được đề cập trong bài viết này.

Huyết áp tâm thu

Huyết áp tâm thu (SAP) cho thấy công việc mà tâm thất trái phải thực hiện để tạo ra một thể tích nhát bóp (SV) đầy đủ, và thu được bằng tương tác giữa hiệu suất của tim và tần số tim, chức năng cơ học đệm của động mạch chủ, và kháng lực mạch máu ngoại vi. Do phụ thuộc nhiều vào SV, sự giảm rõ rệt SAP (<90mmHg hoặc giảm hơn 40mmHg) đã được đề xuất như một tiêu chuẩn chẩn đoán và như một mục tiêu huyết động, đặc biệt trong sốc tim và sốc giảm thể tích.

Một chỉ số lâm sàng hổn hơp là chỉ số sốc (SI), thu được bằng cách chia tần số tim (HR) cho SAP. SI >0,7-0,9 đã được sử dụng để phát hiện giảm thể tích máu ở bệnh nhân chấn thương và sốc giảm thể tích, và cũng là một yếu tố tiên lượng trước đây. Một trong những phát đồ hồi sức của thử nghiệm ProCESS bao gồm chỉ số CI >= 0,8 như một kích hoạt hồi sức dịch, mở rộng việc sử dụng nó sang sốc nhiễm trùng. Một chỉ số hổn hợp khác là chỉ số sốc hiệu chỉnh (HR/MAP) nhưng vài trò vẫn chưa được làm rõ.

HA xamlan

Đọc thêm...

Báo cáo kết quả MRI tiền liệt tuyến theo PI-RADS

  • PDF.

BS. Phan Tuấn Kiệt – 

Ung thư tuyến tiền liệt (PCa) là loại ung thư phổ biến thứ hai ở nam giới. Hai phần ba trường hợp PCa được chẩn đoán ở các nước phát triển. Các xét nghiệm chẩn đoán truyền thống để phát hiện PCa, cụ thể là kháng nguyên đặc hiệu tuyến tiền liệt (PSA) và sinh thiết dưới hướng dẫn siêu âm xuyên trực tràng (TRUS), thiếu cả độ nhạy và độ đặc hiệu. PSA đặc hiệu cho tuyến tiền liệt nhưng không đặc hiệu PCa. Sinh thiết dưới hướng dẫn siêu âm qua trực tràng có thể bỏ sót tới 30% khối u và trong khoảng 30% trường hợp đánh giá thấp mức độ xâm lấn của khối u.

Hình ảnh MRI ban đầu được sử dụng để phân loại giai đoạn tại chỗ và chụp cắt lớp vi tính (CT) hoặc xạ hình xương để phân loại giai đoạn xa ở bệnh nhân ung thư đã được chứng minh bằng sinh thiết. Những lợi thế gần đây trong công nghệ MR cho phép thực hiện đồng thời cả hình ảnh giải phẫu và chức năng, cộng hưởng từ đa thông số (mpMRI) đã cải thiện khả năng phát hiện và mô tả đặc điểm của khối u tuyến tiền liệt.

Năm 2012, Hội Hình ảnh học Niệu dục Châu Âu (ESUR) đã công bố một đánh giá MRI tuyến tiền liệt tiêu chuẩn có tên là PI-RADS. Đây là PI-RADS phiên bản đầu tiên. Vào 2015, những hướng dẫn này đã được cập nhật (PI-RADS v2) bởi American College of Radiology (ACR) và EAU Section of Urological Research (ESUR). PI-RADS v2.1 được đưa ra vào năm 2019, bản cập nhật này xác định các thông số kỹ thuật cơ bản mpMRI tuyến tiền liệt, đưa ra các thuật ngữ đơn giản và chuẩn hóa cho báo cáo ngắn gọn. Điều này sẽ hỗ trợ các bác sĩ hình ảnh trong báo cáo kết quả MRI tuyến tiền liệt và giúp giảm sự khác nhau trong diễn giải của mỗi người đọc kết quả. Sự hợp lý và cập nhật của phiên bản 2.1 sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các cuộc hội chẩn đa chuyên khoa và mang lại khả năng giao tiếp hiệu quả hơn giữa bác sĩ lâm sàng và bác sĩ hình ảnh học.

tienliettuyent2w1

Xem tiếp tại đây

U xương sườn

  • PDF.

BS Lê Minh Thắng – 

I.Tổng quan:

Các khối u nguyên phát ở thành ngực không phổ biến, chỉ chiếm 0,04% trong tất cả các bệnh ung thư mới được chẩn đoán và 5% trong tất cả các khối u ở ngực.

Các khối u xương sườn không phổ biến chiếm 5–10% tất cả các khối u xương. Chúng có thể xuất hiện với nhiều triệu chứng khác nhau và việc phân biệt lành tính với tổn thương ác tính là một thách thức.

Hầu hết các tổn thương xương sườn là u ác tính thứ phát, di căn hoặc xâm lấn trực tiếp từ các u ác tính lân cận như ung thư vú, ung thư phổi, u trung biểu mô và u trung thất. Các khối u phát sinh từ xương sườn có khả năng lành tính cũng như ác tính khi loại trừ di căn [2]. Loạn sản sợi và u sụn là những tổn thương xương sườn lành tính được phát hiện thường xuyên nhất [4].

Khai thác tiền sử cẩn thận và các xét nghiệm hỗ trợ có thể giúp đưa ra chẩn đoán xác định. Phẫu thuật cắt bỏ là phương pháp điều trị được lựa chọn với tiên lượng tốt.

uxuongsuon

Xem tiếp tại đây

Theo dõi bệnh nhân trong gây mê

  • PDF.

Bs  Thuỷ Ngọc Chương - 

theodoime

Xem tiếp tại đây

Siêu âm các tổn thương mô mềm ở trẻ em

  • PDF.

BS. Phan Tuấn Kiệt – 

Siêu âm là phương tiện dễ tiếp cận, không nhiễm xạ và có độ phân giải cao đối với mô mềm nên thường là khảo sát hình ảnh đầu tiên được thực hiện để đánh giá các tổn thương có thể sờ thấy hoặc nhìn thấy ở trẻ em.

Kỹ thuật

Trước khi bắt đầu siêu âm, nên xem hình dạng bên ngoài của tổn thương, thay đổi màu da và khai thác bệnh sử lâm sàng, bao gồm tuổi khởi phát, thời gian diễn biến của tổn thương, triệu chứng lâm sàng. Các tổn thương mô mềm bề mặt nên được kiểm tra bằng đầu dò thẳng tần số cao (>10MHz) để có độ phân giải không gian tối đa của các cấu trúc bề mặt và thông tin chi tiết về các lớp da và mô dưới da

samomem 

Hình 1: Cấu trúc mô mềm bình thường ở mặt lưng của cẳng tay trên siêu âm.

Độ hồi âm của tổn thương nên được so sánh với lớp mỡ dưới da hoặc cơ lân cận. Siêu âm rất hữu ích trong việc phân biệt giữa tổn thương dạng nang và dạng đặc. Một khối giảm âm với tăng âm phía sau là dấu hiệu đặc trưng của tổn thương dạng nang. Ngoài ra, khi ấn bằng đầu dò, các tổn thương dạng nang có thể bị đè ép dễ dàng hơn các tổn thương đặc, mặc dù một số tổn thương dạng nang không biến dạng khi ấn. Doppler màu là cần thiết để xác nhận tính chất mạch máu, đặc hoặc nang của một khối. Độ nhạy của Doppler màu có thể được cải thiện bằng cách giảm scale hay PRF, tăng gain màu và giảm mức độ đè ép đầu dò lên tổn thương để tránh chèn ép các mạch máu nhỏ. Khảo sát Doppler phổ bao gồm dạng sóng (động mạch hay tĩnh mạch), vận tốc và chỉ số sức cản (RI).

Xem tiếp tại đây 

You are here Đào tạo