• Phone: 0235.3851.429
  • Hotline: 19009095
  • Thông tin:

dieuhanhtructuyen

Tin tức – sự kiện

Nhân một trường hợp thai lạc chỗ trong ổ bụng

  • PDF.

BS Nguyễn Thị Kiều Trinh - 

Trường hợp lâm sàng

Thai phụ tên NTTN, 39 tuổi, PARA 3012. Mất kinh 03 tháng, có đi siêu âm tại tuyến dưới lúc trễ kinh 01 tháng, không thấy thai trong tử cung, nhưng không được chẩn đoán thai ngoài tử cung, tự về nhà theo dõi.

Trước ngày nhập viện một ngày, đau bụng nên xin nhập viện tại TTYT huyện, được siêu âm chẩn đoán thai ngoài tử cung, được chỉ định phẫu thuật nội soi trong đêm. Tuy nhiên, theo ghi nhận tại TTYT huyện, vào Trocart, quan sát không tiếp cận được khối thai, toàn bộ vùng hố chậu bị lấp đầy các quai ruột nên phẫu thuật viên ngưng mổ, đặt dẫn lưu và sáng ngày hôm sau chuyển về Bệnh viện Đa khoa tỉnh Quảng Nam.

Tại Bệnh viện Đa Khoa Quảng Nam, ghi nhận sinh hiệu ổn định, bụng có vết mổ cũ đường dọc giữa rốn vệ, có 03 vết khâu Trocart và lỗ đặt dẫn lưu hố chậu phải.

Siêu âm có khối thai nằm cạnh trái tử cung, có chiều dài đầu mông CRL= 35mm tương xứng với thai 10 tuần 3 ngày, tim thai 156 lần/ phút, có dịch khu trú vùng cùng đồ sau, khoang Morrison không có dịch. Xét nghiệm CTM : Hb 12.9g/dl, Hct 37,5%, BC 13, 6 x 10^ 3/ UL. Được chẩn đoán thai ngoài tử cung trái.

thailac1

           Hình 1: Hình ảnh thai ngoài tử cung trái trên siêu âm

Lần cập nhật cuối lúc Thứ năm, 20 Tháng 5 2021 09:14

Đọc thêm...

Xét nghiệm GGT (gamma-glutamyl transferase)

  • PDF.

CN PHAN MINH TỰ - 

GGT là một enzym hầu hết gắn ở màng tế bào, có tác dụng tạo ra các isopeptid của glutamat với các amino acid tự do khác, giải phóng dipeptid cysteinyl-glycin từ glutathion (GSH). Cả 2 loại peptid này đi vào bào tương, ở đó cysteinyl-glycin được thủy phân thành các amino acid tự do là cystein và glycin do dipeptidase xúc tác. Peptid của y-glutamyl với amino acid khác được bẻ gẫy bởi enzym đặc hiệu là cyclotransferase. Enzym này giải phóng amino acid khác và biến đổi gốc glutamat thành 5-oxoprolin (hay còn gọi là acid pyrrolidon carboxylic). Dưới tác dụng của 5-oxoprolinase và ATP, 5-oxoprolin tạo thành glutamat và glutamat tái tổng hợp lại glutathion theo chu trình y-glutamyl.

xnggt1

Sơ đồ 1. Chu trình gamma glutamyl

Lần cập nhật cuối lúc Chủ nhật, 16 Tháng 5 2021 08:39

Đọc thêm...

Quảng Nam: Cắt bỏ thành công khối u "làm khổ" người phụ nữ suốt 10 năm

  • PDF.

Tr Thường - nld.com.vn

(NLĐO) – Các bác sĩ ở Quảng Nam đã cắt bỏ thành công khối u lớn nằm dưới hàm mà một nữ bệnh nhân đã "sống chung" với nó suốt 10 năm qua.

Ngày 13-5, các bác sĩ Khoa Răng – Hàm - Mặt Bệnh viện (BV) Đa khoa Quảng Nam cho biết vừa phẫu thuật thành công khối u lớn vùng dưới hàm cho bệnh nhân N.T.T (35 tuổi; ngụ xã Bình Trị, huyện Thăng Bình).

umat

Khối u lớn nằm dưới cằm nữ bệnh nhân suốt 10 năm đã được cắt bỏ

Theo chị T, cách đây khoảng 10 năm, chị phát hiện ra khối u vùng dưới hàm nên đã đi khám, điều trị nhiều nơi, dùng thuốc uống nhưng không đỡ. Khối u này "sống chung" 10 năm qua khiến cuộc sống của chị gặp vô vàn khó khăn. Khoảng vài tháng trở lại đây, khối u to dần, gây đau, khó chịu và làm mất cân xứng vùng mặt, ảnh hưởng thẩm mỹ nên chị T. quyết định vào BV Đa khoa Quảng Nam điều trị.

Sau khi thăm khám, làm các xét nghiệm cơ bản, các bác sĩ chẩn đoán chị T. bị nang thượng bì vùng dưới hàm phải, cần phẫu thuật để loại bỏ khối u, phục hồi lại thẩm mỹ khuôn mặt. Bệnh nhân được ê kíp Khoa Răng Hàm Mặt gồm bác sĩ chuyên khoa 1 Ngô Thị Nhật Phượng và BS CKI. Lê Đắc Cử trực tiếp phẫu thuật.

Các bác sĩ sau đó đã cắt bỏ thành công khối u nang thượng bì có kích thước khoảng 5×5 cm. Khối u khá lớn xâm lấn 1 phần qua phía dưới hàm trái, vào sâu bên trong các tổ chức sàng miệng và các cơ quan lân cận gây nguy hiểm cho bệnh nhân.

BS CKI. Ngô Thị Nhật Phượng cho hay phẫu thuật các khối u vùng dưới hàm nói riêng và vùng mặt nói chung khá phức tạp vì ảnh hưởng nhiều đến thẩm mỹ của bệnh nhân. BS Phượng khuyến cáo người dân nếu phát hiện thấy có khối u bất thường cần sớm đến bệnh viện thăm khám để được bác sĩ chẩn đoán và diều trị kịp thời.

Nguồn: Tr.Thường - Báo Người Lao Động: https://nld.com.vn/suc-khoe/quang-nam-cat-bo-thanh-cong-khoi-u-lam-kho-nguoi-phu-nu-suot-10-nam-20210513103617636.htm

Lần cập nhật cuối lúc Thứ năm, 13 Tháng 5 2021 20:06

Cơ chế hoạt động của Atropine trong việc kiểm soát sự tiến triển của bệnh cận thị

  • PDF.

Bs. Lê Văn Hiếu – 

Cận thị là tật khúc xạ phổ biến nhất trên toàn thế giới và ước tính sẽ gây ảnh hưởng đến khoảng 50% dân số toàn cầu vào năm 2050. Độ cận thị ngày càng cao có liên quan đến các biến chứng đe dọa thị lực như bong võng mạc, thoái hóa điểm vàng, đục thủy tinh thể và tăng nhãn áp.

Do đó, nhiều chiến lược, chẳng hạn như đeo kính, thay đổi môi trường và dược phẩm, đã được nghiên cứu về khả năng làm chậm cận thị của chúng, và hiện nay, một số chiến lược đã được áp dụng rộng rãi. Trong số tất cả các chiến lược được đánh giá cho đến nay, atropine được coi là hiệu quả nhất, và hiện tại, atropine liều thấp (0,01%) được sử dụng rộng rãi để làm chậm tiến triển của cận thị.

Mặc dù được sử dụng phổ biến, 3 cơ chế cơ bản về hiệu quả của atropine trong việc làm chậm sự phát triển của mắt vẫn chưa rõ ràng. Mục đích của bài viết tổng quan này là thảo luận về các giả thuyết khác nhau cho cơ chế hoạt động được đề xuất của atropine và trình bày tóm tắt một số nghiên cứu đã được xem xét cho đến nay.

canthi

Qua cơ chế điều tiết

Atropine là một chất đối kháng muscarinic không chọn lọc, tức là nó cạnh tranh các vị trí liên kết trên tất cả các thụ thể muscarinic, do đó ngăn chặn hoạt động của acetylcholine.

Việc sử dụng atropine đầu tiên dựa trên giả thuyết do mắt điều tiết quá mức gây ra cận thị và atropine làm mất chức năng điều tiết này. Tuy nhiên, các nghiên cứu mang tính bước ngoặt kết luận rằng không có khả năng atropine phát huy tác dụng thông qua con đường ức chế điều tiết, vì cả atropine và pirenzepine (một chất đối kháng muscarinic khác) đều ức chế cận thị ở gà con thiếu thụ thể muscarinic trong cơ thể mi.

Điều này dẫn đến việc chuyển từ việc nghiên cứu tác động của atropine qua cơ chế điều tiết sang các cơ chế tác động trong võng mạc, hắc mạc và cũng mạc như ở hầu hết các loài động vật có vú, các thụ thể muscarinic (M1 đến M5) được cho là hiện diện trên các mô này.

canthi2

Thông qua cơ chế tác động lên thụ thể muscarinic trong võng mạc

Người ta cho rằng atropine có thể phát huy tác dụng của nó bằng cách thay đổi dẫn truyền thần kinh võng mạc. Ở gà con, trục nhãn cầu kéo dài và độ cận thị được tìm thấy khi có các tế bào hạch võng mạc, cơ quan thụ cảm ánh sáng và tế bào amacrine bị tổn thương; tuy nhiên, trái với mong đợi, việc cắt bỏ các tế bào amacrine không ngăn cản atropine ức chế sự kéo dài trục.

Các thụ thể Muscarinic cũng được tìm thấy trong biểu mô sắc tố võng mạc, lớp biểu mô dắc tố này nằm giữa võng mạc và hắc mạc. Atropine được tìm thấy làm tăng giải phóng dopamine nhưng làm giảm điện võng mạc (ERG) sóng b và d và dao động giảm dần của điện thế biểu mô sắc tố võng mạc (RPE). Người ta thấy rằng atropine tăng cường giải phóng dopamine, sau đó kiểm soát sự phát triển trục nhãn cầu, qua đó ngăn ngừa phát triển của cận thị.

Thật vậy, trong nhiều nghiên cứu trên động vật thực nghiệm, việc sử dụng chất chủ vận thụ thể dopamine đã gây ức chế sự phát triển của cận thị.

canthi3

Thông qua cơ chế tác động lên thụ thể muscarinic trong hắc mạc

Atropine nhanh chóng dẫn đến dày hắc mạc thoáng qua và ức chế sự phát triển của trục nhãn cầu, và người ta cho rằng hai quá trình dày màng mạch và trục nhãn cầu, có thể liên quan với nhau.Trong các nghiên cứu gần đây hơn, sử dụng atropine 1% và thậm chí 0,01% cho kết quả tăng độ dày hắc mạc ở dưới và cạnh lổ hoàng điểm.

Thông qua cơ chế tác động lên thụ thể muscarinic trong củng mạc

Cũng có quan điểm cho rằng củng mạc là vị trí đích để ức chế cận thị bằng atropin. Sự tổng hợp glycosaminoglycan, của chất nền củng mạc, đã bị ức chế bởi atropine trong các nghiên cứu liên quan đến củng mạc từ gà con. Mặc dù atropine gây độc cho tế bào củng mạc ở nồng độ cao, việc phát hiện ra sự giảm tổng hợp glycosaminoglycan mở ra một con đường khác mà atropine có thể đang phát huy tác dụng của nó.

Thông qua các thụ thể khác có trong mắt

Một yếu tố nữa là atropine có thể phát huy tác dụng của nó thông qua các cơ chế khác với việc ngăn chặn các thụ thể muscarinic. Có nhiều nghiên cứu để làm sang tỏ điều này.

Thứ nhất, chỉ một số thuốc đối kháng muscarinic ức chế cận thị trong khi phần lớn thuốc không làm được điều đó. Ngoài atropine và pirenzepine, chỉ có oxphenonium mới ngăn ngừa cận thị ở gà con, trong khi các hợp chất, ví dụ, mepenzolate, procyclidine, methoctramine không có tác dụng.

Thứ hai, như đã nói trước đây, atropine được tìm thấy ảnh hưởng đến sự tổng hợp glycosaminoglycan của củng mạc của gà con.

Tóm lại, cơ chế cơ bản về hiệu quả của atropine trong việc làm chậm sự phát triển cận thi là chưa rõ ràng, nhưng có thể atropine có thể phát huy tác dụng của nó theo nhiều con đường, cơ chế khác nhau. Sự hiểu biết cặn kẻ các cơ chế này sẽ giúp cho các nhà khoa học tìm được các hợp chất hợp lý nhất. Hơn nữa, kiến thức về cơ chế này sẽ giúp xác định chính xác những bệnh nhân có khả năng được điều trị hiệu quả và nâng cao hiểu biết về các tác dụng phụ tiềm ẩn của atropine.

Tài liệu tham khảo:

https://bhvi.org/news/mechanism-of-action-of-atropine-in-controlling-myopia-progression/?fbclid=IwAR1N86szAQow9BIKV35v8Fkhg3mNi1GaRvvUSDT6cTSZZkToYn3uzcVCLbQ

 

Lần cập nhật cuối lúc Thứ bảy, 08 Tháng 5 2021 15:08

Mức kháng nguyên HBcrAg trong viêm gan B liên quan đến nguy cơ ung thư gan

  • PDF.

Bs CK2 Nguyễn Ngọc Võ Khoa - 

Cách tốt nhất để quản lý bệnh nhân viêm gan B mãn tính có tải lượng virus trung gian (IVL) đang là đề tài "gây tranh cãi". Các bác sĩ. Tai-Chung Tseng và Jia-Horng Kao của Bệnh viện Đại học Quốc gia Đài Loan tại Đài Bắc nói với Reuters Health trong một email chung.

"Dữ liệu của chúng tôi cho thấy rằng HBcrAg nên được đánh giá ở bệnh nhân IVL vì mức cắt 10 KU / mL có thể phân tầng nguy cơ ung thư biểu mô tế bào gan (HCC) thành hai nhóm riêng biệt", họ giải thích. "Điều trị bằng thuốc kháng vi-rút có thể được xem xét ở những bệnh nhân IVL có nồng độ HBcrAg cao (> 10 KU / mL) để giảm nguy cơ HCC theo thời gian."

"Tuy nhiên, những phát hiện này cần các nghiên cứu trong tương lai để xác nhận," họ nói. "Ngoài ra, xét nghiệm HBcrAg vẫn chưa được EMA hoặc FDA chấp thuận và vẫn là một công cụ nghiên cứu."

Tiến sĩ. Tseng, Kao và các đồng nghiệp đã thu thập dữ liệu trên 2.666 người lớn (61% nam giới) tại Bệnh viện Đại học Đài Loan dương tính với kháng nguyên bề mặt viêm gan B, bị nhiễm kiểu gen HBV B hoặc C, và không bị xơ gan, người đã theo dõi lâu dài -up tại Bệnh viện Đại học Quốc gia Đài Loan. Tuổi đăng ký thay đổi từ 28 đến trên 60 tuổi và thời gian theo dõi trung bình là 16 tuổi.

Lúc ban đầu, 29,11% có mức ALT từ 40 U / L trở lên; 19,35% là HBeAg (kháng nguyên viêm gan B e); 47,67% có HBcrAg <10 KU / mL; 20,59% có IVL (2.000-19.999 IU / mL); và 39,01% có tải lượng virus cao (mức HBV DNA ≥ 20.000 IU / mL).

Không ai được điều trị bằng thuốc kháng vi-rút trong quá trình theo dõi.

Theo báo cáo trực tuyến ngày 27 tháng 8 tại Gastroenterology, 209 bệnh nhân đã phát triển HCC (tỷ lệ mới mắc, 4,91 trường hợp / 1000 người-năm). Mức cơ bản của HBcrAg có liên quan đến sự phát triển HCC và mức độ HBcrAg là một yếu tố rủi ro độc lập trong phân tích đa biến.

Trong một nhóm nhỏ bệnh nhân âm tính kháng nguyên viêm gan B với IVL và nồng độ alanine aminotransferase bình thường, nồng độ HBcrAg từ 10 KU / mL trở lên được xác định là bệnh nhân có nguy cơ mắc HCC cao hơn (tỷ lệ nguy hiểm, 4,89).

Ngược lại, nguy cơ HCC không khác biệt đáng kể giữa bệnh nhân có nồng độ HBcrAg cao và IVL hoặc VL cao. (20.000 IU / mL trở lên).

Tuy nhiên, những người có IVL và mức độ HBcrAg thấp có nguy cơ mắc HCC thấp, với tỷ lệ mới mắc hàng năm là 0,10%.

Bác sĩ Ira Jacobson, Giám đốc khoa Gan mật tại NYU Langone Health ở thành phố New York, đã bình luận trong một email gửi tới Reuters Health, "Trong hơn một thập kỷ, nồng độ DNA HBV trong máu của bệnh nhân được biết đến là một yếu tố dự báo chính từ lâu thuật ngữ nguy cơ của bệnh xơ gan và ung thư gan. Nhưng việc sàng lọc khả năng dự đoán kết quả của chúng tôi là cần thiết để tăng cường khả năng đưa ra quyết định về việc bệnh nhân nào sẽ điều trị hoặc theo dõi ung thư gan. "

"Trong nghiên cứu này về một nhóm bệnh nhân nhiễm HBV rất lớn ... các tác giả đã liên hệ mức độ HBcrAg trong huyết thanh với nguy cơ ung thư gan lâu dài và tìm thấy mối tương quan mạnh mẽ giữa ung thư và mức độ cao hơn", ông nói. "Ở những bệnh nhân có nồng độ IVL, trong đó đã có tranh cãi về sự cần thiết phải điều trị bằng thuốc kháng vi-rút dài hạn, mối quan hệ mạnh mẽ giữa nồng độ virus và nguy cơ ung thư vẫn còn tồn tại, tạo nên một lập luận mạnh mẽ để điều trị cho những bệnh nhân này."

"Việc nghiên cứu bệnh nhân HBcrAg ở nhóm siêu vi thấp là điều đáng quan tâm, hiện tại tất cả các hướng dẫn hiện tại đều khuyên không nên điều trị, mặc dù các tác giả có mối tương quan tích cực với nguy cơ HCC trong nhóm này với xét nghiệm viêm gan B định lượng kháng nguyên bề mặt đã trở nên có sẵn trên thị trường gần đây nhưng không được sử dụng rộng rãi trên lâm sàng ", ông nói thêm.

Giống như Tiến sĩ. Tseng và Kao, Tiến sĩ Jacobson lưu ý rằng "Bản thân HBcrAg chỉ có sẵn như là một thử nghiệm nghiên cứu, nhưng chắc chắn nghiên cứu này sẽ thúc đẩy sự quan tâm bổ sung đối với HBcrAg không chỉ là một dấu hiệu tiên lượng, mà còn là một dấu hiệu thành công tiềm năng với các liệu pháp điều tra . "

NGUỒN:

http://bit.ly/2LzIRLz  Gastroenterol 2019. Thông tin sức khỏe của Reuters © 2019 

Lần cập nhật cuối lúc Thứ năm, 06 Tháng 5 2021 20:34

You are here Tin tức