• Phone: 0235.3851.429
  • Hotline: 19009095
  • Thông tin:

dieuhanhtructuyen

Đào tạo NCKH

Siêu âm trong Hồi Sức Cấp Cứu

  • PDF.

Bs Đinh Hồng Thảo - 

I. Tóm tắt

1. Mục đích của bài review

Bài viết này tóm tắt ứng dụng và bằng chứng hỗ trợ cho việc sử dụng siêu âm trong ICU.

2. Các phát hiện gần đây

Siêu âm có trọng điểm tại giường (POCUS: Point-of-care ultrasonography) đã được sử dụng rộng rãi bởi các nhà hồi sức trong quản lí bệnh nhân hồi sức do chúng có thể đánh giá nhanh chóng và chính xác nhiều bệnh lí như tràn khí màng phổi, phù phổi, thận ứ nước, tràn máu phúc mạc, huyết khối tĩnh mạch sâu. Siêu âm tim trong hồi sức cơ bản và nâng cao bao gồm cả siêu âm tim qua thực quản được thực hiện thường qui để xác định bệnh nguyên của huyết động không ổn định trong shock không phân biệt được và hướng dẫn thực hiện các liệu pháp tiếp theo. Việc sử dụng POCUS trong đánh giá thể tích dịch vẫn đang còn tranh cãi, các nghiên cứu cho thấy sự biến đổi theo hô hấp của IVC không đánh tin cậy và phân tích tốc độ dòng máu qua van động mạch chủ sau khi thực hiện nghiệm pháp nâng chân thụ động đang trở thành công cụ hứa hẹn nhất.

3. Tổng kết

POCUS cho phép các bác sĩ lâm sàng ở tuyến đầu đưa ra các chẩn đoán và quyết định điều trị theo thời gian thực. Bài viết này sẽ cung cấp cho độc giả 1 bài tổng quan về chủ đề quan trọng này.

POCUS

Xem tiếp tại đây

Lao màng não – não

  • PDF.

Bs Lê Thị Hà – 

Lao là một bệnh truyền nhiễm do vi khuẩn lao (Mycobacterium tuberculosis) gây nên. Bệnh lao có thể gặp ở tất cả các bộ phận của cơ thể, trong đó lao phổi là thể lao phổ biến nhất (chiếm 80 - 85% tổng số ca bệnh) và là nguồn lây chính cho người xung quanh.

I. CHẨN ĐOÁN LAO NGOÀI PHỔI

Lao ngoài phổi là thể lao khó chẩn đoán - do vậy để tiếp cận chẩn đoán, người thầy thuốc trong quá trình thăm khám người bệnh phải hướng tới và tìm kiếm các dấu hiệu của bệnh lao, phân biệt với các bệnh lý ngoài lao khác và chỉ định làm các kỹ thuật, xét nghiệm để từ đó chẩn đoán xác định dựa trên:

- Các triệu chứng, dấu hiệu ở cơ quan ngoài phổi nghi bệnh.

- Luôn tìm kiếm xem có lao phổi phối hợp không, sàng lọc ngay bằng Xquang phổi. Nếu có lao phổi sẽ là cơ sở quan trọng cho chẩn đoán lao ngoài phổi.

- Lấy bệnh phẩm từ các vị trí tổn thương để xét nghiệm:

  • Tìm vi khuẩn bằng kỹ thuật nhuộm soi trực tiếp, nuôi cấy, Xpert MTB/RIF (với bệnh phẩm dịch não tủy, đờm, dịch phế quản, dịch dạ dày, dịch (mủ) các màng, mủ tổn thương hạch, xương, tai, khớp,…).
  • Xét nghiệm mô bệnh, tế bào học xác định hình ảnh tổn thương lao.

- Chẩn đoán lao ngoài phổi đơn thuần không kết hợp với lao phổi thường khó khăn, cần dựa vào triệu chứng nghi lao (sốt về chiều kéo dài, ra mồ hôi ban đêm, sút cân); triệu chứng tại chỗ nơi cơ quan bị tổn thương, nguy cơ mắc lao.

- Mức độ chính xác của chẩn đoán phụ thuộc nhiều vào khả năng phát hiện của các kỹ thuật hỗ trợ như: X-quang, siêu âm, sinh thiết, xét nghiệm vi khuẩn học.

bacteriumtuberculosis

Xem tiếp tại đây

Chẩn đoán và quản lý thai giới hạn tăng trưởng trong tử cung

  • PDF.

Bs Nguyễn Thế Tuấn - 

ĐỊNH NGHĨA

Thai nhỏ so với tuổi thai ( small for gestational age SGA) khi cân nặng ước đoán của thai (EFW) hoặc chu vi bụng (AC) dưới bách phân vị (BPV) thứ 10 so với khoảng tham chiếu.

Thai giới hạn tăng trưởng trong tử cung ( fetal growth restriction FGR) thường được định nghĩa là thai nhi không đạt mức tăng trưởng tiềm năng được xác định trước. Xác định FGR không đơn giản vì sự tăng trưởng của thai nhi không thể chỉ xác định thông qua một lần đánh giá kích thước của thai nhi.

FGR có thể xảy ra ở 10% các thai kỳ và là một nguyên nhân hàng đầu gây bệnh tật và tử vong chu sinh.

Để phân biệt SGA và FGR ở những trường hợp kích thước thai dưới BPV 10 cần kết hợp thêm các chỉ số sinh lý khác. Có nhiều cách để thực hiện, như đánh giá tốc độ tăng trưởng của thai, dùng biểu đồ tăng trưởng hiệu chỉnh, đánh giá vận tốc Doppler tuần hoàn nhau thai và sử dụng các dấu chỉ sinh học.

thaigioihan

Xem tiếp tại đây

 

Dấu ấn sinh học trong nhiễm trùng huyết

  • PDF.

Bs Lê Văn Tuấn - 

Nhiễm trùng huyết được định nghĩa là một phản ứng không được kiểm soát của vật chủ đối với nhiễm trùng dẫn đến rối loạn chức năng cơ quan đe dọa tính mạng. Nó có tỷ lệ tử vong trong 30 ngày ước tính là 24,4% và tăng lên 34,7% ở những bệnh nhân bị sốc. Trụ cột chính trong quản lý nhiễm trùng huyết là bắt đầu dùng kháng sinh sớm. Tuy nhiên, việc sử dụng kháng sinh phổ rộng không phù hợp có thể dẫn đến tình trạng kháng kháng sinh và thậm chí làm tăng tỷ lệ tử vong. Việc xác định 30,6% đến 56,4% bệnh nhân nhiễm trùng huyết âm tính có thể ngăn ngừa những kết quả bất lợi này thông qua việc thực hiện giảm leo thang kháng sinh và ngay cả ở những người có kết quả nuôi cấy dương tính, có thể giảm thời gian điều trị. Ngoài ra, các hệ thống tính điểm dựa trên phòng thí nghiệm và lâm sàng hiện tại thiếu độ nhạy và độ đặc hiệu để hướng dẫn các bác sĩ lâm sàng đưa ra quyết định phân loại và tiên lượng. Để giải quyết những tình huống khó xử này, các bác sĩ lâm sàng đã chuyển sang sử dụng các dấu ấn sinh học, được định nghĩa là các phân tử có thể được đo lường và đánh giá một cách khách quan như một chỉ báo về các quá trình sinh học cơ bản. 

presepsin

Lần cập nhật cuối lúc Thứ ba, 02 Tháng 5 2023 09:24

Đọc thêm...

Lọc máu HD và thẩm tách siêu lọc máu

  • PDF.

BS. Đặng Thị Quỳnh Chi - 

1. GIỚI THIỆU

Lọc máu thông thường (HD) dựa trên sự khuếch tán vận chuyển các chất tan qua màng bán thấm và có hiệu quả trong việc loại bỏ các chất hòa tan và chất điện giải có trọng lượng phân tử nhỏ (MW) hòa tan trong nước. Việc loại bỏ các chất hòa tan có kích thước phân tử lớn hơn, chẳng hạn như phosphate, β2-microglobulin bị giới hạn bởi sự đề kháng với cơ chế khuếch tán. Bởi vì sự loại bỏ không hiệu quả lượng lớn chất độc ure máu có thể góp phần vào gia tăng nguy cơ tỷ lệ tử vong cao do tim mạch được quan sát thấy ở những bệnh nhân này, do đó sự cần thiết phải loại bỏ tốt hơn của các chất hòa tan đã trở nên rõ ràng. Các phân tử lớn hơn đã được biết đến từ lâu rằng là có thể được loại bỏ qua màng lọc một cách hiệu quả hơn bằng cơ chế vận chuyển đối lưu, là cơ chế lọc ít bị giới hạn về kích thước phân tử hơn so với lọc bằng cơ chế khuếch tán.

Vào những năm 1970, lọc máu (HF) được phát triển như một liệu pháp đối lưu thuần túy, sau đó là sự ra đời của thẩm tách siêu lọc máu (HDF), kết hợp các ưu điểm của khuếch tán và đối lưu vào một liệu pháp. Ở cả HF và HDF, nước trong huyết tương được lọc qua màng quả lọc vượt quá thể tích siêu lọc (UFV) cần thiết để kiểm soát tình trạng cân bằng dịch. Thể tích dịch lọc được thay thế vào máu dưới dạng dịch thay thế vô trùng, không gây sốt để duy trì sự ổn định huyết động.

 

locmauu

Xem tiếp tại đây

 

You are here Đào tạo