Bs. Phan Tuấn Kiệt –
Đánh giá nguy cơ bệnh lý mạch máu não là một trong những chỉ định chính của siêu âm động mạch cảnh. Sự hiện diện của các mảng xơ vữa động mạch làm tăng nguy cơ, không chỉ đối với đột quỵ, mà còn đối với bệnh mạch vành và bệnh mạch máu ngoại vi. Trong khi việc sử dụng bề dày lớp nội trung mạc (IMT) thường quy để đánh giá nguy cơ còn nhiều tranh cãi, ngày càng nhiều bằng chứng cho thấy IMT (nếu được đo chính xác) sẽ cung cấp thông tin có giá trị liên quan tới nguy cơ tim mạch. Nhiều nghiên cứu lâm sàng và dịch tễ học đã chứng minh mối liên quan với bệnh mạch vành, đột quỵ và bệnh mạch máu ngoại vi với IMT. Do đó, các phép đo bề dày lớp nội trung mạc nên là một phần của mọi cuộc kiểm tra siêu âm ngoài sọ, đặc biệt khi các phép đo IMT có thể dễ dàng thu được bằng siêu âm động mạch cảnh. Cũng cần lưu ý sự gia tăng bề dày lớp nội trung mạc cũng có thể được tìm thấy trong bệnh không xơ vữa động mạch (chẳng hạn như viêm mạch hoặc như một phản ứng với tăng huyết áp).
Yêu cầu về hình ảnh và đo đạc:
- Sử dụng hình ảnh độ phân giải cao.
- Tia siêu âm vuông góc với thành mạch.
- Đo tại vị trí thành sau hoặc cả hai (thường dùng trong nghiên cứu)
- Vị trí đo cách chỗ chia động mạch cảnh ít nhất 5 mm, tránh vị trí mảng vữa xơ và đo trên một đoạn thẳng (dài 10 mm).
- Cần quan sát độ hồi âm của IMT (tăng hồi âm của lớp trung mạc)
Hình 1: Sơ đồ vị trí đặt đầu dò trong khảo sát IMT động mạch cảnh.