• Phone: 0235.3851.429
  • Hotline: 19009095
  • Thông tin:

dieuhanhtructuyen

Chương trình “Phẫu thuật miễn phí cho trẻ khe hở môi – vòm miệng năm 2025” – Đăng ký, khám sàng lọc lần 1 từ 05/05/2025 đến 30/05/2025 – Liên hệ: Bs CK2 Nguyễn Minh Đức 0905309192 ------------ Chào mừng HỘI NGHỊ KHOA HỌC MẠNG LƯỚI CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH LẦN THỨ 7 - Ngày 06-07/06/2025 tại TP Tam Kỳ - Quảng Nam

Tin tức – sự kiện

Phương pháp mãng châm

  • PDF.

Bs Huỳnh Thị Thủy Tiên - 

1. ĐẠI CƯƠNG

Mãng châm là hình thức kết hợp giữa trường châm và cự châm cổ điển trong Thiên Cửu Châm (sách Linh Khu).

Mãng châm là kỹ thuật thường được dùng trong chuyên khoa Y học cổ truyền để điều trị các chứng liệt ở người bệnh tai biến mạch máu não như: liệt 1/2 người, liệt mặt, liệt dây thanh âm (nói khó, nói ngọng) và các bệnh lý liên quan đến thần kinh.

Kỹ thuật mãng châm là kỹ thuật dùng kim to, kim dài châm theo huyệt đạo tức là châm xuyên từ huyệt này sang huyệt kia trên cùng một đường kinh hoặc trên hai đường kinh khác nhau có tác dụng điều khí nhanh, mạnh hơn nên có tác dụng chữa các chứng bệnh khó như chứng đau, chứng liệt…

Mãng châm cũng nhằm mục đích “điều khí” như các hình thức châm khá. Nhưng đặc điểm là điều khí trên “huyệt đạo” nghĩa là dùng tim to và dài, châm kim cùng một lúc trên nhiều huyệt của một kinh mạch hoặc hai, ba kinh mạch. Do đó mục đích Bổ hoặc Tả đều mạnh hơn, nhanh chóng tiêu trừ được bệnh tà hơn, lấy lại trang thái cân bằng Âm dương nhanh hơn, bệnh chóng khỏi hơn.

Kim châm trong sử dụng Mãng châm là kim có độ dài từ 15 cm, 20 cm, 30 cm có thể tới 60 cm, và đường kính từ 0, 5 đến 1 mm. Tùy từng huyệt đạo trên cơ thể mà ta có thể sử dụng các kim châm có độ dài tương ứng.

Đọc thêm...

Té ngã ở người cao tuổi

  • PDF.

Bs Trình Trung Phong - 

Té ngã ở người cao tuổi là vấn đề rất hay gặp và để lại nhiều biến chứng cũng như tốn kém chi phí điều trị và làm giảm chất lượng cuộc sống.Vì vậy việc hiểu biết cơ bản về vấn đề này cũng rất quan trọng và cần thiết.

1. Nguyên nhân gây té ngã ở người cao tuổi

  • Suy giảm sức khỏe thể chất: Tuổi cao thường đi kèm với sự suy yếu về cơ bắp, xương khớp, và giảm khả năng giữ thăng bằng. Các bệnh lý như viêm khớp, loãng xương, và thoái hóa cột sống càng làm tăng nguy cơ té ngã.
  • Suy giảm thị lực và thính lực: Giảm thị lực, nhìn mờ hoặc không nhận biết được các chướng ngại vật làm người cao tuổi dễ vấp ngã.
  • Rối loạn thần kinh: Các bệnh lý như Parkinson, đột quỵ, hoặc sa sút trí tuệ làm giảm khả năng vận động và nhận thức.
  • Tác dụng phụ của thuốc: Một số loại thuốc như thuốc an thần, thuốc chống trầm cảm, hoặc thuốc hạ huyết áp có thể gây chóng mặt, mất thăng bằng.
  • Môi trường sống không an toàn: Các nguy cơ như sàn nhà trơn, thiếu ánh sáng, cầu thang không có tay vịn, hoặc đồ vật để bừa bộn cũng làm tăng nguy cơ té ngã.

Lần cập nhật cuối lúc Thứ hai, 02 Tháng 12 2024 20:06

Đọc thêm...

Chlamydia Trachomatis và bệnh đau mắt hột

  • PDF.

Bs Trương Thị Kiều Loan - 

Bình luận xác nhận của Garcia-Teillard và cộng sự đã dẫn chúng tôi đến việc xây dựng câu trả lời dựa trên ba điểm:

- Điều trị nhiễm trùng bằng liệu pháp kháng sinh có mục tiêu và kéo dài có thể can thiệp vào vòng đời của Chlamydia trachomatis, làm giảm tình trạng không phù hợp với kháng sinh và do đó làm giảm hiệu quả;

- Giảm thiểu tình trạng ô nhiễm thuốc trừ sâu bừa bãi gây ảnh hưởng đến chuỗi thức ăn và làm giảm đa dạng sinh học;

- Đánh giá vai trò tích cực của các loài hai cánh trong việc truyền nhiễm ở khu vực thành thị bằng cách nâng cao nhận thức về nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục trong các Cơ quan Y tế thông qua thông tin và phòng ngừa, phân biệt giữa biện pháp bảo vệ và biện pháp tránh thai, với sự gia tăng hiện nay về tình trạng lây nhiễm trong nhóm dân số có năng lực.

Bình luận của Damian Garcia-Teillard và cộng sự liên quan đến đề xuất về nhu cầu nâng cao nhận thức về nhiễm Chlamydia trachomatis (Ct) do đường lây truyền qua đường tình dục giúp mở đường cho những câu trả lời và cân nhắc rõ ràng hơn.

mathot

Hình ảnh bệnh nhân bị đau mắt hột do Chlamydia trachomatis

Đọc thêm...

Bệnh lý vi mạch huyết khối

  • PDF.

CN Nguyễn Đào Hiếu - 

Bệnh lý vi mạch huyết khối là gì ?

Bệnh lý vi mạch huyết khối (Thrombotic microangiopathy - TMA) là một nhóm các rối loạn trong đó những bất thường tại thành mạch của các tiểu động mạch và mao mạch dẫn đến hình thành huyết khối vi mạch. TMA là một chẩn đoán bệnh lý được thực hiện bằng sinh thiết mô. Tuy nhiên, nó thường được suy ra từ bối cảnh lâm sàng thích hợp có thiếu máu tán huyết vi mạch (Microangiopathic hemolytic anemia – MAHA) và giảm tiểu cầu. Mặc dù hiếm gặp, TMA là tình trạng đe dọa tính mạng cần được xử trí khẩn cấp.

vimach

Lần cập nhật cuối lúc Thứ bảy, 23 Tháng 11 2024 07:26

Đọc thêm...

Đối với nhiễm trùng máu, 7 ngày dùng kháng sinh có hiệu quả như 14 ngày

  • PDF.

Bs Lê Văn Tuấn - 

Theo dữ liệu mới từ một thử nghiệm không thua kém ở bảy quốc gia, một liệu trình kháng sinh kéo dài 7 ngày để điều trị nhiễm trùng huyết (BSI: bloddstream Infection) ở bệnh nhân nằm viện cũng hiệu quả như một liệu trình kéo dài 14 ngày. Những phát hiện từ thử nghiệm Thời gian kháng sinh nhiễm khuẩn huyết thực sự cần thiết để có hiệu quả lâm sàng (BALANCE) có ý nghĩa đối với chi phí chăm sóc sức khỏe và giảm tác hại của kháng sinh trên toàn cầu và có khả năng làm giảm tình trạng kháng thuốc kháng sinh.

Đây là thử nghiệm ngẫu nhiên lớn nhất dành cho bệnh nhân mắc BSI, với hơn 3600 bệnh nhân, Nick Daneman, MD, MSc, nhà khoa học lâm sàng tại Khoa Bệnh truyền nhiễm tại Trung tâm Khoa học Sức khỏe Sunnybrook ở Toronto, Ontario, Canada, cho biết tại Cuộc họp thường niên Tuần lễ Bệnh truyền nhiễm (IDWeek) năm 2024. Daneman là đồng điều tra viên chính cùng với Robert Fowler, MD, tại Khoa Y học Chăm sóc Đặc biệt Liên khoa, cũng đến từ trung tâm Sunnybrook.

7days

Cuộc thử nghiệm đã mở rộng phạm vi áp dụng cho bệnh nhân tại 74 bệnh viện ở Úc, Canada, Israel, New Zealand, Ả Rập Xê Út, Thụy Sĩ và Hoa Kỳ.

Daneman cho biết bệnh nhân có nhiều nguyên nhân tiềm ẩn gây ra BSI, phổ biến nhất là nhiễm trùng đường tiết niệu, phổi và bụng.

BSI rất phổ biến và rất nguy hiểm, Daneman lưu ý, với 600.000 ca mỗi năm và 90.000 ca tử vong mỗi năm chỉ tính riêng ở Bắc Mỹ. "Chúng ta cần nhiều bằng chứng hơn về cách điều trị tối ưu cho những bệnh nhân này."

Là một phần của thử nghiệm, các nhà điều tra đã xem xét tài liệu về các liệu trình kháng sinh thông thường trên toàn cầu và thấy rằng thời gian phổ biến nhất là 14 ngày, Daneman cho biết. Trước BALANCE, không có thử nghiệm ngẫu nhiên nào, ông giải thích.

Họ đã phân ngẫu nhiên 3631 bệnh nhân theo tỷ lệ 1:1 vào 7 hoặc 14 ngày với điểm cuối chính là tử vong trong 90 ngày. Hơn một nửa số bệnh nhân bị bệnh nặng và được đưa vào khoa chăm sóc đặc biệt (ICU) tại thời điểm nghiên cứu, Daneman cho biết.

Trong nhóm điều trị 7 ngày, 14,5% bệnh nhân tử vong trong vòng 90 ngày. Trong nhóm điều trị 14 ngày, 16,1% bệnh nhân tử vong trong vòng 90 ngày.

Daneman cho biết: "Chúng tôi cũng thấy rằng việc điều trị trong 7 ngày ngay từ đầu dẫn đến việc sử dụng ít kháng sinh hơn trong quá trình theo dõi và thời gian nằm viện ngắn hơn". Ngoài ra, trong các kết quả thứ cấp, nhóm nghiên cứu thấy rằng phương pháp điều trị trong 7 ngày có hiệu quả tương đương với 14 ngày trong một loạt các kết quả khác, bao gồm tỷ lệ tử vong tại ICU, tỷ lệ tử vong tại bệnh viện, tái phát BSI và các dấu hiệu khác.

Kết quả thay đổi thực hành

Ông cho biết: “Chúng ta có thể nói rất rõ ràng ở đây rằng 7 ngày không hề kém hiệu quả trong điều trị nhiễm trùng huyết”, đồng thời nói thêm rằng việc điều trị trong 7 ngày nên là chiến lược chung cho các BSI trong tương lai.

Tiến sĩ, bác sĩ Yohei Doi, giáo sư y khoa tại Khoa Bệnh truyền nhiễm thuộc Đại học Pittsburgh ở Pittsburgh, người không tham gia nghiên cứu, cho biết: "Đây là một bản tóm tắt rất có sức thuyết phục và có thể thay đổi hoạt động lâm sàng".

Ông cho biết kết quả của thử nghiệm BALANCE đã được mong đợi từ lâu vì chúng giúp trả lời một câu hỏi quan trọng trong BSI.

“Không có sự đồng thuận về thời gian điều trị”, Doi cho biết trong một cuộc phỏng vấn. “Khi tôi còn đang đào tạo, tất cả chúng tôi đều được thông báo là phải dùng 2 tuần (kháng sinh) để điều trị nhiễm trùng huyết. Thời gian đó đã ngắn hơn theo thời gian, với hầu hết dữ liệu hồi cứu cho thấy rằng có lẽ thời gian điều trị ngắn hơn cũng an toàn và hiệu quả như thời gian điều trị dài hơn. Câu trả lời chắc chắn chỉ đến khi bệnh nhân được chỉ định ngẫu nhiên” như trong nghiên cứu này.

Doi cho biết, các hướng dẫn hiện tại không chỉ định thời gian dùng kháng sinh cho bệnh nhiễm trùng huyết, vì nhiễm trùng huyết thường là tình trạng thứ phát - ví dụ như nhiễm trùng đường tiết niệu lan vào máu.

Điểm mạnh bao gồm quy mô của nghiên cứu và phạm vi bảy quốc gia, Doi cho biết, và biên độ không thua kém "cực kỳ chặt chẽ" chỉ 4% giúp tăng thêm sự tin tưởng vào kết quả. Để so sánh, ông cho biết, biên độ không thua kém đối với một loại thuốc mới đang tìm kiếm sự chấp thuận của FDA "thường có thể nằm trong khoảng từ 7,5% đến 15%".

Một số tiêu chí loại trừ

Doi nhấn mạnh rằng thử nghiệm này cũng có ít tiêu chí loại trừ. Những người bị loại trừ có tình trạng suy giảm miễn dịch cực độ, chẳng hạn như những người đã trải qua ghép tạng và những người bị giảm bạch cầu trung tính hoặc áp xe chưa dẫn lưu, ông lưu ý. Họ bao gồm bệnh nhân ICU và không phải ICU, các tác nhân gây bệnh gram âm và gram dương, và bao gồm những bệnh nhân mắc các tình trạng như suy thận. Những bệnh nhân bị Staphylococcus aureus  bị loại trừ vì thời gian điều trị kéo dài vốn có.

Doi cho biết việc họ lựa chọn cẩn thận các tiêu chí loại trừ là rất quan trọng vì "chúng tôi muốn dữ liệu có thể áp dụng cho những bệnh nhân mà chúng tôi gặp hàng ngày".

Daneman cho biết nhóm đã triển khai BALANCE plus, một nền tảng thử nghiệm dành cho bệnh nhân mắc BSI gram âm để giải đáp thêm các câu hỏi về phương pháp điều trị.

Nguồn: https://www.medscape.com/viewarticle/bloodstream-infection-7-days-antibiotics-effective-14-2024a1000j67?form=fpf

Lần cập nhật cuối lúc Thứ ba, 26 Tháng 11 2024 22:05

You are here Tin tức