• Phone: 0235.3851.429
  • Hotline: 19009095
  • Thông tin:

dieuhanhtructuyen

Đào tạo NCKH

Gây mê ở bệnh nhân béo phì

  • PDF.

Bs Phạm Văn Thịnh - 

I/ Tổng quan :

  • Béo phì là một bệnh phổ biến. Số lượng người thừa cân, béo phì, bệnh béo phì gia tăng ngày căng nhanh chóng trong 3 thập kỹ gần đây.
  • Các biến chứng liên quan đến gây mê cũng được thấy ở bệnh nhân béo phì hơn so với người có cân nặng bình thường.
  • Tầm quan trọng của các ứng dụng gây mê ở bệnh nhân béo phì bắt nguồn từ những thay đổi về sinh lý học, giải phãu học và dược động học. 
  • Chỉ số khối cơ thể (BMI) chỉ là một thước đo béo phì. Một vài bệnh nhân có chỉ số BMI cao nhưng là người khỏe mạnh.
  • Sự phân phối mỡ là yếu tố tiên đoán nguy cơ bệnh tật tốt hơn trọng lượng đơn thuần.
  • Tăng huyết áp, đái tháo đường, bệnh tim mạch, rối loạn lipid máu, viêm khớp, đau lưng là những biến chứng phổ biến ở bệnh nhân béo phì.
  • Ngừng thở khi ngủ (Obstructive sleep apnea - OSA) là vấn đề phổ biến ở những người béo phì dễ gây những biến chứng bất lợi trong quá trình dẫn mê và phẫu thuật.
  • Thông khí thường khó khăn trên bệnh nhân béo phì, OSA, BMI, cổ ngắn… là thách thức khi đặt nội khí quản. Xác định thời gian rút nội khí quản sau khi tỉnh khỏi mê cũng là một quyết định quan trọng.
  • Liều lượng thuốc ở bệnh nhân béo phì nên xem xét: tổng trọng lượng, trọng lượng nạc, trọng lượng lý tưởng, thuốc có đặc tính tan trong mỡ.
  • Rối loạn dinh dưỡng có thể ảnh hưởng có ý nghĩa đến kết quả phẫu thuật, đặt biệt nhiễm trùng sau mỗ. 

II/ Béo phì :

  • Béo phì là tình trạng chức năng mà cân nặng có tỉ lệ cao hơn chiều cao.
  • Chỉ số khối cơ thể (BMI) hiện là thước đo tiêu chuẩn để mô tả các loại béo phì khác nhau và BMI là thước đo gián tiếp của bệnh béo phì vì nó chỉ xem xét chiều cao và cân nặng, không phân biệt nguồn gốc của bất kỳ trọng lượng bổ sung nào. 

gaymebeo

Xem tiếp tại đây

Lần cập nhật cuối lúc Thứ hai, 14 Tháng 9 2020 15:40

Hormon kháng ống Muller (Anti-Mullerian Hormon - AMH)

  • PDF.

Bs Ngô Lê Ái Thảo - 

Tổng quan

Hormon kháng ống Muller (Anti-Mullerian Hormon - AMH), còn được gọi là chất ức chế ống Muller (Mullerian Inhibiting substance – MIS) được phát hiện vào năm 1947 bởi Alfred Jost, người đầu tiên nghi ngờ có sự tồn tại của một yếu tố đặc biệt ảnh hưởng đến sự phân hóa giới tính nam trong thời kỳ bào thai. Và vào năm 1984, Vigier và cộng sự phát hiện AMH cũng được tiết ra ở người nữ.(2)

AMH là một glycoprotein khoảng 140 kDa, gồm hai tiểu đơn vị giống nhau, nối nhau qua cầu nối disulfide, thuộc họ yếu tố tăng trưởng chuyển đổi - beta (transforming growth factor – beta: TGF - β) tham gia vào việc điều hòa tăng trưởng và biệt hóa mô.(2)

amh1

Hình 1: Cấu trúc AMH

Lần cập nhật cuối lúc Thứ hai, 14 Tháng 9 2020 15:19

Đọc thêm...

Ung thư vùng đầu và cổ (phần cuối)

  • PDF.

Bs Nguyễn Duy Phi Hiệp - 

k đầu cổ1

Xem tiếp tại đây

Lần cập nhật cuối lúc Thứ ba, 08 Tháng 9 2020 08:42

Liệu pháp bicarbonate trong nhiễm toan lactic

  • PDF.

BS Trần Văn Phúc -

GIỚI THIỆU

Nhiễm toan lactic gây ra sự giảm nồng độ bicarbonat huyết thanh tương tự như mức độ tăng nồng độ lactat. Lactate là một anion hữu cơ dễ chuyển hóa, khi bị oxy hóa sẽ tạo ra bicarbonate. Do đó, nếu tác nhân kích thích sản xuất axit lactic được loại bỏ bằng cách điều trị thành công bệnh cơ bản (ví dụ, khôi phục tưới máu ở bệnh nhân bị sốc), các quá trình oxy hóa sẽ chuyển hóa lactate tích lũy và tái tạo bicarbonate. Điều này sẽ điều chỉnh tình trạng nhiễm toan chuyển hóa và giảm khoảng trống anion.

Vai trò của liệu pháp bicarbonat ngoại sinh ở bệnh nhân nhiễm toan lactic còn đang tranh cãi.Hầu hết, nhưng không phải tất cả, các chuyên gia cho rằng thích hợp sử dụng bicarbonate ở những bệnh nhân bị bệnh nặng có nhiễm toan lactic và toan huyết (pH động mạch nhỏ hơn 7,1). Tình trạng tăng acid huyết nghiêm trọng như vậy có thể tạo ra sự không ổn định về huyết động do làm giảm sức co bóp thất trái, giãn mạch máu và suy giảm khả năng đáp ứng với catecholamine.

sodium-bicarbonate

Lần cập nhật cuối lúc Chủ nhật, 06 Tháng 9 2020 18:08

Đọc thêm...

Hướng dẫn thực hành lâm sàng tầm soát ung thư theo Hiệp hội ung thư Hoa Kỳ (American Cancer Society)

  • PDF.

Bs Phạm Ngọc Na - 

Các hướng dẫn về tầm soát và phát hiện sớm các bệnh lý ung thư ở người lớn không có triệu chứng, nguy cơ trung bình đã được Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ (ACS) phát hành vào tháng 6 năm 2019.

Ung thư vú

Phụ nữ có điều kiện nên bắt đầu tầm soát hàng năm từ 40 đến 44 tuổi.
Chụp nhũ ảnh tầm soát nên bắt đầu được thực hiện thường quy từ 45 tuổi và được thực hiện hàng năm ở phụ nữ từ 45 đến 54 tuổi. Phụ nữ từ 55 tuổi trở lên nên chuyển sang sàng lọc hai năm một lần hoặc có điều kiện thì tiếp tục sàng lọc hàng năm. Chụp nhũ ảnh nên tiếp tục được thực hiện khi người phụ nữ có sức khỏe tổng quát tốt và tuổi thọ trên 10 năm.

chupnhuanh

Xem tiếp tại đây

 

Lần cập nhật cuối lúc Thứ năm, 03 Tháng 9 2020 17:16

You are here Đào tạo