• Phone: 0235.3851.429
  • Hotline: 19009095
  • Thông tin:

dieuhanhtructuyen

Đào tạo NCKH

Chăm sóc bệnh nhân bị “Hội chứng hậu COVID-19”

  • PDF.

BsCKII Trần Lâm - 

Mở đầu:

Hầu hết bệnh nhân mắc COVID-19 đều hồi phục trong vòng vài tuần sau khi bị bệnh, tuy nhiên, một số người lại gặp phải “Hội chứng hậu COVID-19” (post-COVID-19 syndrome). Hội chứng hậu COVID-19 được định nghĩa là một loạt các vấn đề sức khỏe mới, đang trở lại hoặc đang diễn ra mà bệnh nhân có thể mắc phải sau ≥ 4 tuần kể từ lần đầu tiên bị nhiễm COVID-19. Khung thời gian từ 4 tuần trở lên là ước tính gần đúng về các tác động xảy ra ngoài giai đoạn cấp, nhưng khoảng thời gian này có thể thay đổi khi chúng ta biết nhiều hơn về COVID-19.

Về mặt thuật ngữ, “Hội chứng hậu COVID-19” còn có thể được gọi là “Các tình trạng hậu COVID”, “COVID kéo dài”, “COVID-19 sau giai đoạn cấp”, “Ảnh hưởng lâu dài của COVID” hoặc “COVID mạn”,...

Ngay cả những người không có các triệu chứng COVID-19 trong những ngày hoặc vài tuần sau khi họ bị nhiễm virus SARS-CoV-2 cũng có thể mắc Hội chứng hậu COVID-19. Hội chứng này có thể biểu hiện dưới nhiều dạng khác nhau với sự kết hợp của các vấn đề sức khỏe trong các khoảng thời gian khác nhau.

Riêng ở trẻ em và thanh thiếu niên, mặc dù COVID cấp có thể ít nghiêm trọng hơn so với người trưởng thành, nhưng bệnh có thể dẫn đến nhiều kết cục có thể từ bán cấp đến nặng. Ảnh hưởng lâu dài do nhiễm SARS-CoV-2 có thể là đáng kể, bất kể mức độ nghiêm trọng của bệnh ban đầu.

haucovid

Xem tiếp tại đây

Lần cập nhật cuối lúc Chủ nhật, 05 Tháng 9 2021 18:45

Cập nhật thông khí nhân tạo bệnh nhân gây mê

  • PDF.

Bs CK1 Dương Văn Truyền - 

tkntao

Xem tại đây

 

Lần cập nhật cuối lúc Thứ bảy, 04 Tháng 9 2021 09:49

Hội chứng gan phổi

  • PDF.

BS. Trần Thị Minh Thịnh - 

I. Đại cương

Hội chứng gan phổi (HPS: Hepatopulmonary syndrome) hiện nay chưa được hiểu rõ và thường xác định muộn. HPS định nghĩa là một khiếm khuyết trong quá trình oxy hóa động mạch gây ra bởi sự hiện diện giãn mạch trong phổi (IPVD: intrapulmonary vascular dilatations) trong bối cảnh của bệnh gan. Năm 1884, Flückiger lần đầu tiên mô tả trường hợp một phụ nữ bị xơ gan, tím tái và ngón tay dùi trống, có thể tương ứng với một bệnh nhân với HPS. Thuật ngữ HPS được đặt ra bởi Kennedy và Knudson vào năm 1977. Các định nghĩa mới cho hội chứng được đề xuất bởi Krowka, Cortese và Rodríguez Roisin vào đầu những năm 90. Hội chứng gan phổi được mô tả như một hội chứng đặc trưng bởi bộ ba lâm sàng bao gồm sự hiện diện của bệnh gan mãn tính, trao đổi khí bất thường, cuối cùng dẫn đến giảm oxy máu và sự hiện diện của IPVD, không có sự hiện diện của bệnh phổi nội tại. Krowka và cộng sự đã thêm độ chính xác vào định nghĩa, quan sát rằng hội chứng có thể cùng tồn tại mắc bệnh tim phổi và cũng có thể xuất hiện ở các trường hợp viêm gan, tăng áp lực tĩnh mạch cửa không liên quan bị xơ gan, thiếu alpha 1 antitrypsin và Bệnh Wilson.

Cho đến năm 1988, HPS được coi là chống chỉ định ghép gan. Tuy nhiên, sau đó, người ta quan sát thấy rằng việc cấy ghép dẫn đến sự đảo ngược trong tình trạng giảm oxy máu và tỷ lệ sống sót sau ghép gan ở mức khoảng 70%. Như vậy hội chứng gan phổi là một chỉ định trong ghép gan.

hcganphoi1

Lần cập nhật cuối lúc Thứ tư, 25 Tháng 8 2021 17:25

Đọc thêm...

Hướng dẫn 2021 của EAN và EFNR về dược lý hỗ trợ trong phục hồi chức năng vận động sớm sau đột quỵ thiếu máu não cấp

  • PDF.

Bs Nguyễn Quốc Thái - 

Đột quỵ là một trong những nguyên nhân quan trọng nhất trên thế giới gây tử vong và giảm / mất khả năng vận động. Tuy nhiên, vẫn còn rất ít chiến lược điều trị nhằm cải thiện tình trạng suy giảm vận động trong giai đoạn trung gian, sau pha cấp của đột quỵ. Những tiến bộ đầy hứa hẹn gần đây trong khoa học cơ bản đã mang lại những cơ hội mới để nghiên cứu vai trò của dược lý hỗ trợ trong phục hồi chức năng thần kinh sớm sau đột quỵ.

Phục hồi thần kinh là một quá trình năng động đa yếu tố và nổi bật nhất trong 30 ngày đầu sau khi khởi phát đột quỵ. Sự mềm dẻo thần kinh là sự hỗ trợ sinh học của quá trình phục hồi não, bao gồm tất cả các cơ chế tái tổ chức tế bào thần kinh, đó là sự hình thành khớp thần kinh, phát triển đuôi gai, nảy mầm của sợi trục, hình thành các con đường giải phẫu mới với các chức năng tương tự như những con đường bị tổn thương, kích hoạt các khớp thần kinh chức năng. Các quá trình trao đổi chất, viêm và di truyền này xảy ra trong một trình tự thời gian cụ thể, phụ thuộc vào thời gian trôi qua kể từ khi khởi phát đột quỵ. Kiến thức toàn diện về trình tự này và về kết nối giữa các quá trình này là rất quan trọng bởi vì các liệu pháp dược lý hoặc không dùng thuốc chỉ có khả năng giảm thiểu tình trạng tàn tật nếu chúng được áp dụng đúng lúc. Can thiệp dược lý có thể khắc phục cơ chế ức chế và kích thích sự mềm dẻo thần kinh theo nhiều cách. Tính mềm dẻo của thần kinh đại diện cho trung tâm cốt lõi của phục hồi chức năng sau đột quỵ.

phuchoi3

Lần cập nhật cuối lúc Thứ hai, 23 Tháng 8 2021 08:00

Đọc thêm...

Sử dụng thuốc chống đông trên bệnh nhân bệnh ung thư và giảm tiểu cầu

  • PDF.

Bs CK1 Trần Thị Thảo - 

Ung thư là yếu tố độc lập và là yếu tố nguy cơ cao gây thuyên tắc - huyết khối tĩnh mạch (VTE: venous thromboembolism). Huyết khối là nguyên nhân thứ hai gây tử vong ở bệnh nhân ung thư trải qua hóa trị liệu. Mặc dù vậy, bệnh nhân ung thư cũng có nguy cơ xuất huyết cao liên quan đến giảm tiểu cầu thứ phát do hóa trị hoặc bệnh lý nền. Cân bằng giữa hai nhóm nguy cơ này rất khó khăn vì quản lý huyết khối liên quan ung thư đòi hỏi phải sử dụng chống đông cho dù biết tăng nguy cơ xuất huyết (nguy cơ xuất huyết nặng ở bệnh nhân ung thư dùng thuốc chống đông cao hơn 2 đến 3 lần bệnh nhân không ung thư dùng thuốc chống đông).

chongdonggtc

VTE liên quan ung thư là một thách thức lâm sàng bởi vì nó tăng nguy cơ VTE tái phát gấp 3 đến 4 lần ở bệnh nhân ung thư, biến chứng chảy máu, tử vong và tần suất nhập viện.

Lần cập nhật cuối lúc Chủ nhật, 22 Tháng 8 2021 14:37

Đọc thêm...

You are here Đào tạo