Bs CKI Trần Quốc Chiến - Khoa Ung bướu
PHẦN VII: ĐIỀU TRỊ HỆ THỐNG ĐỐI VỚI BỆNH DI CĂN: MỘT BỐI CẢNH ĐIỀU TRỊ ĐANG THAY ĐỔI MỘT CÁCH NHANH CHÓNG
Kể từ cuối những năm 1950, hóa trị hệ thống với 5-FU vẫn là chỗ dựa chính yếu của việc điều trị giảm nhẹ cho những bệnh nhân có tình trạng bệnh di căn mà không đáng phải chịu sự can thiệp bằng phẫu thuật. Trong suốt những thập kỷ kế tiếp, nhiều phác đồ 5-FU khác nhau đã được ưa dùng, bao gồm việc sử dụng 5-FU tiêm tĩnh mạch nhanh khối lượng lớn hoặc là hàng tuần hoặc là hàng ngày từ ngày 1 đến ngày 5, hoặc truyền tĩnh mạch liên tục qua catheter tĩnh mạch trung tâm hoặc một bơm tiêm truyền có thể di chuyển được. Tỷ lệ đáp ứng khách quan thay đổi từ 15% đến 25% khi sử dụng các phác đồ này. Khi 5-FU được sử dụng theo cách tiêm tĩnh mạch nhanh khối lượng lớn, nó thường được bổ sung thêm leucovorin để làm gia tăng sự kết dính của 5-FU vào đích của nó, thymidylate synthase (TS). Sau một thời gian dài không có một sự chắc chắn về liều lượng và phác đồ 5-FU với leucovorin tối ưu, các phác đồ dựa trên việc truyền 5-FU đã được công nhận vì có hiệu quả cao hơn đối với các phác đồ sử dụng tiêm tĩnh mạch nhanh khối lượng lớn 5-FU. Tuy nhiên, trước khi có sự ra đời của irinotecan và oxaliplatin, mặc dầu sự phân phát 5-FU theo cách truyền tĩnh mạch đã đưa đến tỷ lệ đáp ứng tốt hơn so với truyền tĩnh mạch nhanh khối lượng lớn, lợi ích sống thêm không rõ ràng đối với phương thức này vẫn chưa được chứng thực. Do có những trở ngại trong việc phân phát 5-FU theo đường truyền tĩnh mạch, bao gồm sự cần thiết phải có catheter tĩnh mạch trung tâm và những nguy cơ có liên quan đến nó, tiêm tĩnh mạch nhanh khối lượng lớn 5-FU cùng với leucovorin đã được chấp nhận một cách rộng rãi ở Hoa Kỳ như là liệu pháp điều trị bước một cho ung thư đại trực tràng di căn cho đến mãi những năm 1990.
Đọc thêm...