• Phone: 0235.3851.429
  • Hotline: 19009095
  • Thông tin:

dieuhanhtructuyen

Đào tạo nhân viên BV

Cập nhật rung nhĩ ở bệnh nhân cường giáp

  • PDF.

BS. Nguyễn Tấn Hạnh - 

Rung nhĩ là dạng rối loạn nhịp phổ biến nhất trên thế giới và đang gia tăng theo tuối. Có nhiều nguyên nhân và cơ chế gây ra rung nhĩ, trong đó, cường giáp là một trong những nguyên nhân đã được báo cáo với khoảng 6-28% bệnh nhân xuất hiện rung nhĩ trên lâm sàng. Tuy mối liên hệ giữa cường giáp và rung nhĩ đã được phát hiện từ lâu, nhưng cho đến hiện tại vẫn còn nhiều vướng mắc đang được nghiên cứu do bệnh nhân cường giáp có đặc điểm bệnh sinh khác với những bệnh nhân bình thường. Bài viết này sẽ cung cấp một cách nhìn tổng quan về cơ chế bệnh học và kiểm soát rung nhĩ ở bệnh nhân cường giáp.

1. Cơ chế bệnh sinh

Ở bệnh nhân rung nhĩ nói chung, cơ chế bệnh học được cho là do hoạt động điện học hỗn loạn tạo nên các vòng vào lại nhỏ. Allessie và cộng sự đề xuất giả thuyết bước sóng, có mối liên quan đến thời kỳ trơ tâm nhĩ và tốc độ dẫn truyền điện học. Nếu bệnh nhân có bước sóng dài thì vòng vào lại sẽ không được duy trì và tự chấm dứt.  Để rung nhĩ được duy trì, bước sóng phải đủ ngắn để các xung động điện có thể tạo thành những vòng vào lại trong tâm nhĩ. Theo thuyết này, thời kỳ trơ tâm nhĩ, tốc độ dẫn truyền hoặc cả hai phải được giảm đủ để cho phép tạo thành và duy trì vòng vào lại. Các giả thuyết khác liên quan đến cơ chế rung nhĩ bao gồm sự hiện diện của chất nền giải phẫu và sự phát xung động nhĩ bất thường. Sự xuất hiện của bất kỳ các rối loạn kể trên đều đưa tới rung nhĩ, ở bệnh nhân cường giáp, sự gia tăng nồng độ hormone tuyến giáp làm gia tăng số lượng thụ thể beta 1 và M2 tại cơ tim, qua đó làm tăng trương lực giao cảm, nhịp nhanh và làm giảm thời gian trơ của tâm nhĩ. Hormone thuyến giáp cũng làm thay đổi các kênh ion trong tế bào thông qua tác động lên RNA bao gồm:

  • Giảm số lượng mRNA mã hóa kênh canxi type L.
  • Gia tăng số lượng Kv 1.5 mRNA.

Những thay đổi của các kênh ion trên làm gia tăng dòng ion ra khỏi tế bào và ngược lại giảm dòng ion vào trong tế bào, qua đó rút ngắn thời gian điện thế hoạt động của tế bào cơ tim.

Ở một số thử nghiệm trên chuột, người ta tìm thấy một số ảnh hưởng gây rối loạn nhịp của hormone tuyến giáp như: làm giảm thời gian điện thế hoạt động, gia tăng tính tự động của tế bào cơ tim quanh lỗ đổ vào của các tĩnh mạch phổi, tăng hiện tượng khử cực chậm tâm trương của các tế bào cơ tim. Thông qua những cơ chế trên, các tác giả kết luận hormone tuyến giáp có vai trò sinh rối loạn nhịp do làm gia tăng tính tự động của các tế bào cơ tim tại vị trí lỗ vào tĩnh mạch phổi.

 CUONGIAP RN

Hình 1. Cơ chế bệnh sinh của rung nhĩ ở bệnh nhân cường giáp

Đọc thêm...

Hội chứng Boerhaave

  • PDF.

Ths.Bs. Nguyễn Xuân Lâm - 

ĐẠI CƯƠNG

Hội chứng Boerhaave là bệnh lý vỡ hoàn toàn thành của thực quản, xảy ra sau một cơn nôn đột ngột, dữ dội. Hội chứng này phải được phân biệt với hội chứng Mollory-Weiss (rách không hoàn toàn thành thực quản sau nôn). Nôn là nguyên nhân hay gặp nhất, tuy nhiên bất kỳ hoạt động nào gây tăng áp lực thực quản đột ngột cũng có thể gây ra hội chứng Boerhaave. Hội chứng Boerhaave chiếm khoảng 10-15% của vỡ thực quản [1].

Chẩn đoán là một thách thức với bác sĩ lâm sàng vì triệu chứng rất mơ hồ và không đặc hiệu. Hội chứng Boerhaave biểu hiện điển hình với tam chứng Mackler (nôn, đau ngực và tràn khí dưới da), tuy nhiên ít khi bệnh nhân biểu hiện đầy đủ các triệu chứng. Do vậy, chẩn đoán thường muộn và tiên lượng bệnh xấu.

Hội chứng Boerhaave là một bệnh lý ống tiêu hóa nặng nề với tỷ lệ tử vong lên đến 60% khi có can thiệp và đến 100% khi không can thiệp [2]. Điều trị phụ thuộc vào thời gian chẩn đoán và tình trạng lâm sàng bệnh nhân, có thể thay đổi từ điều trị bảo tồn đến điều trị ngoại khoa phức tạp [3].

hoichungH

Xem tiếp tại đây

Lần cập nhật cuối lúc Thứ hai, 03 Tháng 6 2024 21:17

Đau mạn tính sau phẫu thuật

  • PDF.

Bs Võ Văn Phong - 

1. Giới thiệu

Đau mạn tính (được định nghĩa là cơn đau kéo dài hơn 3 đến 6 tháng) là một trong những lý do phổ biến nhất khiến bệnh nhân tìm kiếm sự chăm sóc y tế, và ảnh hưởng đến hơn 20% trẻ em và người lớn chỉ riêng ở Hoa Kỳ. Đau mạn tính bắt đầu từ đau cấp tính, trong đó phẫu thuật là nguyên nhân phổ biến gây ra đau cấp tính.

Chủ đề này sẽ thảo luận về tỷ lệ mắc, các yếu tố nguy cơ dẫn đến đau mạn tính sau phẫu thuật, những gì đã biết về cơ chế bệnh sinh và các chiến lược có thể áp dụng để phòng ngừa.

2. Định nghĩa

Đau mạn tính sau phẫu thuật (Chronic postsurgical pain – CPSP) còn được gọi là đau sau mổ mạn tính, đau dai dẳng sau mổ hoặc đau kéo dài sau phẫu thuật. Định nghĩa của CPSP thay đổi tùy theo tài liệu tham khảo, có thể đề cập đến cơn đau kéo dài ít nhất 3, 6 hoặc 12 tháng sau phẫu thuật.

dau sauPT

Xem tiếp tại đây

Lần cập nhật cuối lúc Chủ nhật, 02 Tháng 6 2024 09:31

Đau trong ung thư giai đoạn cuối

  • PDF.

Bs. Hồ Huy Hùng -  

Ung thư là bệnh lý ác tính trong đó tế bào ung thư phát triển vô hạn độ, vô tổ chức, không tuân theo các cơ chế kiểm soát của cơ thể. Đặc điểm của bệnh ung thư là xâm lấn, di căn và hay tái phát. Khi mắc bệnh ung thư, người bệnh không chỉ bị tổn thương thực thể mà còn bị tổn thương cả về tinh thần, tâm lý. Ở bệnh nhân ung thư, 90% có dấu hiệu mệt mỏi, 80% có sút cân, chán ăn, lo lắng hốt hoảng và 80-85% có biểu hiện đau ở các mức độ khác nhau.

Định nghĩa đau: Tổ Chức Nghiên Cứu Đau Quốc Tế - International Association for the Study of Pain (IASP): Đau là một trải nghiệm khó chịu về mặt cảm giác và cảm xúc, có liên quan đến tổn thương mô thực sự hoặc tiềm tàng, hay được mô tả như là tổn thương tương tự.

Đau trong ung thư khiến bệnh nhân suy sụp sức khỏe và tinh thần, ảnh hưởng đến chất lượng sống và giảm hiệu quả chữa bệnh. Do đó, điều trị giảm đau là vấn đề được chú trọng hàng đầu trong điều trị cho bệnh nhân ung thư, nhất là ung thư giai đoạn cuối.

dauK

Xem tiếp tại đây

Lần cập nhật cuối lúc Thứ sáu, 31 Tháng 5 2024 10:02

Quản lý và điều trị ung thư đại trực tràng giai đoạn IV

  • PDF.

BS Nguyễn Thị Hà - 

ĐẠI CƯƠNG

Ung thư đại trực tràng (CRC) là loại ung thư phổ biến thứ ba và là nguyên nhân thứ hai gây tử vong liên quan đến ung thư trên toàn thế giới, với ước tính 1,9 triệu trường hợp và 935.000 ca tử vong hàng năm [ 1,2 ] . Tại Hoa Kỳ, có gần 1,37 triệu người đang sống chung với CRC và ước tính có 52.580 ca tử vong vào năm 2022, khiến CRC trở thành nguyên nhân phổ biến thứ hai gây tử vong liên quan đến ung thư [ 3 , 4 ]. Tỷ lệ sống còn trung bình 5 năm cho tất cả các giai đoạn của CRC là 65,1% [ 3 ]. Tuy nhiên, giai đoạn ung thư có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng sống sót. Ở CRC giai đoạn IV (CRC di căn (mCRC)), được định nghĩa là ung thư lan đến các vị trí hoặc cơ quan ở xa hoặc di căn phúc mạc, tỷ lệ sống sót sau 5 năm giảm đáng kể xuống còn 15,1% [ 3 ].

Khoảng 22% trường hợp CRC có di căn khi biểu hiện và 19% sẽ phát triển di căn sau đó [ 3 , 4 , 5 , 6 ]. Các vị trí di căn phổ biến nhất được liệt kê theo thứ tự là gan, phổi và phúc mạc [ 5 , 7 ]. Vị trí di căn có ảnh hưởng đến khả năng sống sót. Để phản ánh điều này, mCRC giai đoạn IV được phân loại sâu hơn dựa trên sự di căn đến một vị trí hoặc cơ quan (IVa), nhiều vị trí hoặc cơ quan (IVb) hoặc liệu có di căn phúc mạc hay không (IVc). Ngoài vị trí di căn, các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng thời gian, số lượng và vị trí xuất phát của di căn cũng có thể ảnh hưởng đến khả năng sống sót [ 6 , 7 , 8 ]. Tính không đồng nhất của mCRC đòi hỏi phải tiếp tục phát triển trong chẩn đoán và xét nghiệm trước điều trị vì điều này rất quan trọng trong việc tạo điều kiện cho tiếp cận điều trị đa ngành.

ungthudaitrang

Xem tiếp tại đây

Nguồn dịch: J Clin Med. 2023 Mar; 12(5): 2072. Published online 2023 Mar 6. doi: 10.3390/jcm12052072

Lần cập nhật cuối lúc Thứ ba, 28 Tháng 5 2024 22:31

You are here Đào tạo Đào tạo nhân viên BV