• Phone: 0235.3851.429
  • Hotline: 19009095
  • Thông tin:

dieuhanhtructuyen

Đào tạo NCKH

Cập nhật chiến lược sử dụng dịch truyền tĩnh mạch ở bệnh nhân viêm tụy cấp

  • PDF.

Bs Nguyễn Thị Yến Linh -

TỔNG QUAN:

Liệu pháp truyền dịch/hồi sức dịch là bắt buộc trong viêm tụy cấp do sinh lý bệnh của tình trạng mất dịch do hậu quả của quá trình viêm. Trong nhiều năm, không có bằng chứng rõ ràng, nên hồi sức truyền dịch sớm và tích cực bằng dung dịch tinh thể (dung dịch normal saline hoặc dung dịch Ringer lactate). Gần đây, nhiều thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên và phân tích tổng hợp về liệu pháp truyền dịch đã tiết lộ rằng truyền dịch tốc độ cao có liên quan đến tăng tỷ lệ tử vong và các tác dụng phụ nghiêm trọng so với những kết quả từ tốc độ dịch truyền vừa phải, và điều này đã gây ra sự thay đổi mô hình trong chiến lược quản lý dịch truyền. Trong khi đó, có bằng chứng cho thấy dung dịch Ringer lactate vượt trội hơn dung dịch normal saline trong bối cảnh này. Mục đích của bài tổng quan này là cung cấp thông tin cập nhật về các chiến lược điều trị bằng dịch truyền tĩnh mạch trong viêm tụy cấp, bao gồm loại, liều lượng tối ưu, tốc độ truyền và hướng dẫn theo dõi. Các khuyến nghị từ các hướng dẫn gần đây được đánh giá một cách nghiêm túc cho tổng quan này nhằm đạt được các khuyến nghị của tác giả dựa trên những bằng chứng sẵn có.

ĐIỂM CHÍNH:

Điều trị tiêu chuẩn cho bệnh nhân viêm tụy cấp là liệu pháp truyền dịch. Theo nhiều thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên, hồi sức truyền dịch sớm và không tích cực/vừa phải sẽ tốt hơn hồi sức truyền dịch tích cực. Truyền dịch quá mức đã được phát hiện là gây rò rỉ mạch máu nhiều hơn, làm trầm trọng thêm các biến chứng cục bộ ở tụy và làm tăng nhiễm trùng và biến chứng phổi. Dung dịch Ringer lactate được sử dụng làm dịch truyền được lựa chọn trong trường hợp này để duy trì tình trạng huyết động thích hợp, với huyết áp động mạch trung bình ≥ 65 mmHg và lượng nước tiểu ≥ 0,5 mL/kg/h được sử dụng làm mục tiêu hồi sức dịch ban đầu.

viemtuy

Xem tại đây

Tổng quan kháng sinh

  • PDF.

Bs Trương Thị Kiều Loan - 

Thuốc kháng sinh là thuốc dùng để điều trị nhiễm trùng do vi khuẩn. Chúng không có hiệu quả chống lại nhiễm virus và hầu hết các bệnh nhiễm trùng khác. Thuốc kháng sinh có thể tiêu diệt vi khuẩn hoặc ngăn chúng sinh sản, cho phép cơ chế phòng vệ tự nhiên của cơ thể loại bỏ chúng.

Các bác sĩ cố gắng sử dụng kháng sinh để điều trị các bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn cụ thể, nhưng đôi khi họ bắt đầu sử dụng kháng sinh có thể điều trị nhiều loại vi khuẩn khác nhau trong khi chờ kết quả xét nghiệm xác định vi khuẩn cụ thể.

Uống thuốc kháng sinh theo quy định là quan trọng và nên dùng thuốc kháng sinh với liều lượng, tần suất và số ngày có hiệu quả nhất để điều trị một bệnh nhiễm trùng cụ thể.

Vi khuẩn có thể phát triển khả năng đề kháng với tác dụng của kháng sinh, đặc biệt nếu chúng không được dùng theo chỉ dẫn.

Thuốc kháng sinh có thể có tác dụng phụ, chẳng hạn như khó chịu ở dạ dày, tiêu chảy và nhiễm trùng nấm âm đạo ở phụ nữ.

Một số người bị dị ứng với một số loại kháng sinh.

Thuốc kháng sinh được nhóm thành các lớp dựa trên cấu trúc hóa học của chúng. Tuy nhiên, thuốc kháng sinh trong mỗi nhóm thường tác động khác nhau đến cơ thể và có thể có hiệu quả chống lại các vi khuẩn khác nhau.

ksinh

Xem tiếp tại đây

Lần cập nhật cuối lúc Thứ ba, 02 Tháng 1 2024 19:58

Liệu pháp NPWT trong điều trị các vết thương cấp tính và mạn tính

  • PDF.

Bs Lê Quang Hoàng Nhã - 

LIEUPHAP

Xem tại đây

 

Lần cập nhật cuối lúc Chủ nhật, 31 Tháng 12 2023 08:18

Nhiễm trùng đường tiết niệu trong thai kỳ

  • PDF.

Bs Nguyễn Thị Kiều Trinh - 

Nhiễm trùng đường tiết niệu (UTI) là một trong những biến chứng chu sinh phổ biến hơn, ảnh hưởng đến khoảng 8% số ca mang thai. Những bệnh nhiễm trùng này có nhiều loại khác nhau, từ vi khuẩn niệu không có triệu chứng, đến viêm bàng quang cấp tính có triệu chứng, đến viêm thận bể thận nghiêm trọng nhất. Sự hiện diện của nhiễm trùng tiểu có liên quan đến kết quả bất lợi khi mang thai, bao gồm tăng tỷ lệ sinh non và nhẹ cân. Hơn nữa, các biến chứng nghiêm trọng của mẹ do viêm bể thận bao gồm nhiễm trùng huyết, đông máu nội mạch lan tỏa và hội chứng suy hô hấp cấp tính (ARDS). Nhìn chung, Escherichia coli là mầm bệnh vi khuẩn phổ biến nhất được phân lập trong mẫu nước tiểu của người mang thai. Sàng lọc và điều trị vi khuẩn niệu không triệu chứng đã được chứng minh trong nhiều nghiên cứu là làm giảm tỷ lệ viêm bể thận trong thai kỳ. Với tần suất nhiễm trùng tiểu xảy ra trong thai kỳ, khả năng nhận biết, chẩn đoán và điều trị chúng là điều cần thiết đối với những người chăm sóc cho người mang thai.

ntdtieu

Xem tại đây

Gây mê phẫu thuật thần kinh (p.2)

  • PDF.

Bs Phạm Văn Thịnh - 

IV. Trong mổ:

Mục đích của gây mê trong phẫu thuật thần kinh bao gồm gây ngủ, gây quên, bất động, kiểm soát ICP và CPP và “thư giãn” cho não (tối ưu tình trạng phẫu thuật). Bất cứ lúc nào, kế hoạch gây mê nên cung cấp chiến lược để cho bệnh nhân tỉnh, rút nội khí quản và có thể đánh giá chức năng thần kinh vào cuối mỗi quy trình.

1. Quá trình dẫn mê: phải không làm tăng ICP hoặc làm giảm CBF. Cần tránh làm tăng huyết áp, tụt huyết áp, thiếu oxy, thừa CO2 và ho.

Propofol (2,0-2,5 mg/kg), midazolam (0,2-0,4 mg/kg), và etomidate (0,3-0,4 mg/kg) là các thuốc dẫn mê phù hợp, tuy nhiên cũng nên tiên lượng trước ảnh hưởng trên huyết động của các thuốc này.

Kích cỡ LMA phù hợp rất quan trọng để tránh giảm thông khí và tránh làm tăng PaCO2. Sau khởi mê, có thể bắt đầu tăng thông khí qua, mask với hỗn hợp NO-O2 hoặc O2 100%.

phthankinh

Xem tại đây

 

You are here Đào tạo