Bs Nguyễn Lương Thảo - Khoa Nội TM
Đột quỵ là 1 nguyên nhân quan trọng gây tử vong và tàn tật trên thế giới. Có 2 phương pháp điều trị đột quỵ. Phương pháp bảo vệ thần kinh tập trung làm giảm kích thước tổn thương và phương pháp phục hồi thần kinh, được phát triển để thúc đẩy sự phục hồi thần kinh thông qua việc điều trị toàn bộ hệ thần kinh trung ương.
Trong nhiều thập kỉ, mục tiêu hàng đầu của liệu pháp điều trị đột quỵ và chấn thương thần kinh là các biện pháp điều trị phần nhu mô tổn thương, với các can thiệp được thiết kế để giảm thể tích ổ nhồi máu. Rất nhiều cố gắng đã được thực hiện để phát triển các thuốc bảo vệ thần kinh, bao gồm các chất bẫy gốc tự do, chất đối kháng glutamate và nhiều thuốc khác. Các thuốc bảo vệ thần kinh phát triển trong phòng thí nghiệm được ứng dụng vào lâm sàng nhưng tất cả đã thất bại. Lý do của sự thất bại có nhiều mặt và phần nào có thể do các quy trình điều trị không thích hợp và thường không thực tế; liều dùng và thời điểm dùng thuốc được ứng dụng 1 cách “hồn nhiên” từ các thử nghiệm lâm sàng vào trong lâm sàng. Một loại thuốc duy nhất đã được phát triển và hiện nay đang được dùng trong lâm sàng để điều trị đột quỵ là chất hoạt hóa plasminogen tổ chức tổng hợp (rtPA), được dùng để tiêu sợi huyết. Tuy nhiên, rtPA không phải là chất bảo vệ thần kinh mà chỉ là chất cải thiện sự tưới máu cho nhu mô não thông qua phân hủy cục huyết khối. Tuy vậy, cửa sổ điều trị dành cho rtPA chỉ là 3 giờ, cho đến gần đây là 4,5 giờ. Hiện nay, ở Mỹ, ít hơn 5% bệnh nhân được dùng rtPA, với lý do hàng đầu là cửa sổ điều trị ngắn. Hơn nữa, rtPA có tác dụng phụ rất nặng là làm tăng tỷ lệ chuyển dạng chảy máu, rtPA không sử dụng được cho chảy máu não. Do vậy, nhu cầu bức thiết đối với sự phát triển các loại thuốc điều trị có thể dùng sau những giờ đầu bị đột quỵ và có thể dùng đều trị cho tất cả các bệnh nhân đột quỵ. Để làm được điều này cần 1 phương pháp chuyển từ các thuốc bảo vệ thần kinh tác dụng đối với đột quỵ, tức là điều trị tổn thương nhồi máu, sang phương pháp sử dụng các thuốc phục hồi thần kinh. Phương pháp này tác động vào nhu mô não lành hoặc tổn thương để thúc đẩy tính mềm dẻo của não và do vậy làm tái cấu trúc não nhằm bù đắp cho các nhu mô đã bị tổn thương, nhờ đó sẽ cải thiện sự tiến triển của chức năng.

Đọc thêm...