Người dịch: BS TRẦN QUỐC CHIẾN - Khoa ung bướu
Nguồn: Clinical value of tumor markers
Current status and future prospect III
Rafael Molina, Xavier Filella, J.M.Auge, J.M. Escudero
Ung thư phổi chiếm khoảng 21% các khối u ác tính ở nam giới và 29% số trường hợp tử vong do ung thư ở cộng đồng Châu Âu. Thời gian sống thêm 5 năm chỉ 13%. Tỷ lệ tử vong cao này có liên quan đến 3 yếu tố, thứ nhất là chẩn đoán trễ, thứ hai là loại mô học và thứ ba là độ tuổi và tình trạng chức năng của bệnh nhân, mà yếu tố này thường cản trở việc cắt bỏ triệt căn. Có hai loại mô học khác nhau của ung thư phổi, được phân loại thành hai phân nhóm chính, ung thư biểu mô tế bào nhỏ và ung thư biểu mô không phải tế bào nhỏ. Ung thư phổi tế bào nhỏ chiếm khoảng 20-25% các khối u phổi và là loại u phát triển nhanh với sự lan tràn đến các hạch vùng hoặc các hạch xa tại thời điểm chẩn đoán, nhưng rất nhạy với hóa trị và xạ trị. Ung thư phổi không phải tế bào nhỏ được tạo thành bởi ba loại mô học chính, ung thư biểu mô tuyến, ung thư biểu mô vảy và ung thư biểu mô không biệt hóa tế bào lớn mà với loại này phẫu thuật là một phương pháp điều trị được lựa chọn. Xạ trị là phương pháp điều trị giảm nhẹ chủ yếu và vai trò của hóa trị trong các trường hợp ung thư phổi không phải tế bào nhỏ tiến xa vẫn còn tranh luận. Các nghiên cứu gần đây cho thấy sự đáp ứng tốt hơn với hóa trị trong ung thư biểu mô tuyến, vì vậy điều quan trọng đáng cân nhắc là phân biệt chúng với các ung thư phổi không phải tế bào nhỏ khác. Ung thư biểu mô tuyến là loại mô học thường gặp nhất ở phụ nữ và những người không hút thuốc lá và ung thư biểu mô vảy thì thường gặp nhất ở những người hút thuốc lá.