• Phone: 0235.3851.429
  • Hotline: 19009095
  • Thông tin:

dieuhanhtructuyen

Y học thường thức

Bốn dấu hiệu tiềm ẩn của các vấn đề về thị lực ở trẻ em

  • PDF.

Bs Lê Thị Hà - 

Khi mùa hè kết thúc, các gia đình có con em trong độ tuổi đến trường tranh nhau chuẩn bị cho năm học mới. Nhưng một trong những điều cần thiết quan trọng nhất nhưng thường bị bỏ qua là thị lực khỏe mạnh.

Khi trẻ lớn lên và thay đổi qua từng năm, mắt và tầm nhìn của trẻ cũng vậy. Trường học đòi hỏi sự tham gia trực quan mạnh mẽ. Không thành vấn đề nếu trẻ em đang ở trong lớp học hoặc học ở nhà. Học tập có thể bao gồm đọc, viết, máy tính và làm việc trên bảng đen/bảng thông minh. Ngay cả giáo dục thể chất và thể thao cũng cần tầm nhìn mạnh mẽ. Nếu mắt không theo kịp nhiệm vụ, trẻ có thể cảm thấy mệt mỏi, khó tập trung và thực hiện kém các bài kiểm tra ở trường.

Đôi khi cha mẹ có thể biết liệu con mình có vấn đề về thị lực hay không. Con của họ có thể nheo mắt hoặc cầm tài liệu đọc rất gần mặt. Họ cũng có thể phàn nàn về những thứ có vẻ mờ. Có một số dấu hiệu ít rõ ràng hơn về các vấn đề về thị lực.

Dưới đây là bốn dấu hiệu tinh tế có thể chỉ ra các vấn đề về thị lực ở trẻ em.

1. Khoảng thời gian chú ý ngắn

Con bạn có thể nhanh chóng mất hứng thú với các trò chơi, dự án hoặc các hoạt động kéo dài khác.

4 mat

Hình ảnh cậu bé dụi mắt khi học bài

Đọc thêm...

Lần cập nhật cuối lúc Thứ hai, 10 Tháng 7 2023 20:47

Xét nghiệm prolactin máu

  • PDF.

CN Nguyễn Thị Khánh Trình - 

Prolactin được tổng hợp ở thùy trước tuyến yên và được tiết theo từng giai đoạn. Nội tiết tố này cấu tạo từ protein chuỗi đơn 199 acid amin và có trọng lượng phân tử khoảng 22-23 kDa. Prolactin tồn tại trong huyết thanh dưới ba dạng khác nhau. Dạng đơn phân có hoạt tính sinh học và miễn dịch (“nhỏ”) chiếm ưu thế, tiếp theo là dạng nhị phân không có hoạt tính (“lớn”) và dạng tứ phân (“lớn-lớn”) có hoạt tính sinh học thấp. Cơ quan đích của prolactin là tuyến vú, nội tiết tố này thúc đẩy sự phát triển và biệt hóa tuyến vú. Nồng độ prolactin cao làm ức chế hoạt động tổng hợp steroid của buồng trứng, sản xuất và tiết ra nội tiết tố sinh dục ở tuyến yên. Trong thời gian mang thai, nồng độ prolactin tăng lên do ảnh hưởng của sự tăng sản sinh estrogen và progesterone. Prolactin kích thích tuyến vú tiết sữa sau khi sinh. Prolactin còn ảnh hưởng đến chuyển hóa glucose và lipid và có thể liên quan đến biểu hiện kháng insulin.

prolactin

Đọc thêm...

Lần cập nhật cuối lúc Chủ nhật, 09 Tháng 7 2023 10:10

Thực hiện chuyển đổi số giai đoạn 2023 – 2025

  • PDF.

CN Châu Ngọc Chính - 

Thực hiện kế hoạch chuyển đổi số của UBND tỉnh Quảng Nam 2023, Bệnh viện Đa khoa Quảng Nam đang triển khai thí điểm đề án 06 về việc thực hiện khám chữa bệnh bằng việc quét thẻ CCCD thay cho thẻ BHYT và khai báo lưu trú bằng VneID. Đồng thời tại bệnh viện cũng đang triển khai thực hiện chuyển đổi số thông qua việc số hóa các mẫu biểu của hồ sơ bệnh án. Điều dưỡng thay cho việc viết tay vào bệnh án thì nay nhập tất cả thông trên trên phần mềm HIS. Trong giai đoàn này Bệnh viện tiếp tục rà soát xây dựng kế hoạch tiến tới triển khai bệnh án điện tử với mục tiêu cụ thể.

chuyendoiso

Đọc thêm...

Lần cập nhật cuối lúc Thứ tư, 19 Tháng 7 2023 09:32

Nghiên cứu liên quan sức khoẻ răng miệng ở trẻ có các vấn đề về hành vi hướng ngoại

  • PDF.

Bs Nguyễn Minh Đức - 

Vấn đề hành vi hướng ngoại ở trẻ em đã được chứng minh là có ảnh hưởng đến cả việc chăm sóc răng miệng và sức khỏe răng miệng

Một số lượng đáng kể trẻ em và thanh thiếu niên mắc phải các vấn đề về cảm xúc và hành vi. Theo một đánh giá của Anh, tỷ lệ trẻ em và thanh thiếu niên có các dấu hiệu của hành vi có vấn đề nghiêm trọng là từ 10 đến 20% (Ogundele 2018). Các vấn đề về hành vi thời thơ ấu, chẳng hạn như hung hăng thù địch và hiếu động thái quá, là điều không mong muốn do các chuẩn mực thông thường của xã hội và được định nghĩa là hành vi gây ra vấn đề về mặt xã hội. Các vấn đề hành vi hướng ngoại (Externalising Behaviour Problem) bao gồm các vấn đề về rối loạn tăng động giảm chú ý (Attention Deficit Hyperactivity Disorder) như: không chú ý, hiếu động thái quá/bốc đồng), cũng như hành vi gây rối, chống đối, hung hăng và rối loạn hành vi (Bloomquist và Schnell 2002).

Hành vi gây nguy cơ cho sức khỏe răng miệng có thể được biểu hiện như một đứa trẻ đánh răng ít hơn hai lần một ngày, và tiêu thụ nhiều đồ ngọt và nước ngọt nhiều lần trong ngày. (Loe 2000; Aunger 2007).

Ở trẻ em bị tăng động giảm chú ý, cha mẹ khó có thể ngăn cản chúng tiêu thụ thức ăn nhiều đường và đôi khi, việc vệ sinh răng miệng/đánh răng thường bị chúng bỏ quên (Staberg và cộng sự 2014). Trong số những trẻ có vấn đề về hành vi hướng ngoại, những trẻ có nguy cơ sâu răng cao đã được chứng minh là có nhiều vấn đề về hành vi và bốc đồng hơn so với những trẻ có nguy cơ sâu răng thấp (Staberg và cộng sự 2016).

Với những trẻ có những tổn thương răng do chấn thương (Traumatic Dental Injuries), chúng thường biểu hiện nhiều triệu chứng tăng động hơn so với trẻ bình thường (Herguner và cộng sự 2015). Tần suất chấn thương răng ở trẻ bị tăng động giảm chú ý cao nhất ở độ tuổi 10-12, với nguyên nhân chính gây chấn thương răng là ngã, va chạm với đồ vật, bạo lực và tai nạn giao thông (Avsar và cộng sự 2009).

Theo một nghiên cứu ở Thuỵ Điển (Twetman và cộng sự 2013), tỷ lệ sâu răng không có nhiều khác biệt ở trẻ em có các vấn đề về hành vi hướng ngoại được phát hiện sớm so với nhóm chứng. Tuy nhiên, phổ biến hơn là những đứa trẻ này đánh răng ít hơn hai lần một ngày và uống nhiều đồ uống ngọt hơn. Những yếu tố rủi ro cá nhân này có thể dẫn đến nguy cơ gia tăng trong tương lai trong nhóm rủi ro sâu răng cao. Hơn nữa, những đứa trẻ này bị chấn thương răng nhiều hơn ở cả hai hàm răng và có nguy cơ mắc chứng sợ nha khoa hơn so với nhóm chứng. Điều này phù hợp với kết quả của một nghiên cứu ở Na Uy ở trẻ em mẫu giáo (Wigen và Wang 2015).

Sức khỏe răng miệng và thói quen đánh răng hàng ngày từ cha mẹ đến trẻ thường được hình thành từ rất sớm và không thể thay đổi (Aunger 2007). Việc ăn uống lành mạnh, vệ sinh đúng cách đòi hỏi phải lập kế hoạch, tổ chức và tự điều chỉnh, điều này có thể khó khăn hơn đối với thanh thiếu niên có các vấn đề về hành vi hướng ngoại. Khi trẻ lớn hơn và trở nên độc lập hơn, các yếu tố nguy cơ có thể tăng lên khi sự giám sát của cha mẹ giảm đi.

Từ các nghiên cứu ở trên, các vấn đề về hành vi của trẻ nên được cha mẹ quan tâm và điều trị sớm. Với nha sĩ bằng cách chú ý đến hành vi của đứa trẻ và lắng nghe cha mẹ trong khi thăm khám răng, các nha sĩ có thể xác định được những đứa trẻ gặp vấn đề về hướng ngoại từ đó đưa ra khuyến nghị phù hợp cho phụ huynh.

Nguồn:

  1. Ogundele MO. Behavioural and emotional disorders in child- hood: a brief overview for paediatricians. World J Clin Pediatr. 2018;7(1):9–26.
  2. Bloomquist ML, Schnell SV. Helping Children with Aggression and Conduct problems: Best practices for intervention. New York: Guilford Press; 2002.
  3. Loe H. Oral hygiene in the prevention of caries and periodontal disease. Int Dent J. 2000;50(3):129–39
  4. Aunger R. Tooth brushing as routine behaviour. Int Dent J. 2007;57(5):364–76
  5. Staberg M, Noren JG, Johnson M, Kopp S, Robertson A. Parental attitudes and experiences of dental care in children and ado- lescents with ADHD—a questionnaire study. Swed Dent J. 2014a;38(2):93–100.
  6. Avsar A, Akbas S, Ataibis T. Traumatic dental injuries in children with attention deficit/hyperactivity disorder. Dent Traumatol. 2009;25(5):484–9
  7. Twetman S, Fontana M, Featherstone JD. Risk assessment—can we achieve consensus? Community Dent Oral Epidemiol. 2013;41:64–70.
  8. Wigen TI, Wang NJ. Does early establishment of favorable oral health behavior influence caries experience at age 5 years? Acta Odontol Scand. 2015;73(3):182–7.
  9. Herguner A, Erdur AE, Basciftci FA, Herguner S. Attention-deficit/ hyperactivity disorder symptoms in children with traumatic dental injuries. Dent Traumatol. 2015;31(2):140–3.

Liên quan tình trạng sức khoẻ răng miệng và nhiễm Covid-19

  • PDF.

Bs Nguyễn Minh Đức - 

Sự lây truyền từ người sang người của bệnh vi-rút corona mới 2019 (COVID-19) là một đại dịch toàn cầu. Tính đến ngày 13 tháng 3 năm 2021, COVID-19 đã ảnh hưởng đến hơn 119 triệu người trên toàn cầu. COVID-19 là một bệnh truyền nhiễm gây ra bởi hội chứng hô hấp cấp tính nặng do vi-rút corona 2 (SARS-CoV-2), một loại vi-rút có vỏ bọc RNA đơn chuỗi [1]. Một số lượng lớn protein hình gai glycosyl hóa bao phủ bề mặt của SARS-CoV-2 và liên kết với enzyme chuyển đổi angiotensin 2 (ACE2) của thụ thể tế bào chủ với sự phân cắt sau đó bởi enzyme protease serine 2 xuyên màng (TMPRSS2), làm trung gian cho sự xâm nhập tế bào của virus [ 1], [2], [3], [4].

Các triệu chứng điển hình nhất của các trường hợp mắc COVID-19 là sốt, ho, nhức đầu, mệt mỏi và khó thở nhẹ. Các triệu chứng khác bao gồm khô miệng, đau họng, đau cơ, nôn mửa và tiêu chảy [5]. Khoang miệng có liên quan đến COVID-19, vì thụ thể ACE2 và TMPRSS2 đã được xác định trong các tế bào biểu mô của niêm mạc miệng [6] và tuyến nước bọt [2,7,8]. Tình trạng sức khỏe răng miệng ở người lớn bị nhiễm COVID-19 đã được ghi nhận ở nhiều quốc gia. Một báo cáo trường hợp từ Ả Rập Saudi đã mô tả ba bệnh nhân nhiễm SARS-CoV-2 bị chảy máu nướu diện rộng [9]. Một nghiên cứu theo chiều dọc gần đây về những người sống sót sau COVID-19 ở Milan, Ý, đã phát hiện ra rằng tỷ lệ mắc chứng giãn tuyến nước bọt (cho thấy phản ứng viêm quá mức đối với SARS-CoV-2) và khô miệng trong số 122 người sống sót sau COVID-19 là 43% và 25%. tương ứng [10].

Tình trạng sức khỏe răng miệng có ý nghĩa hệ thống trong việc duy trì trạng thái khỏe mạnh (cộng sinh). Bằng chứng tích lũy đã chứng minh mối liên quan giữa tình trạng sức khỏe răng miệng và các bệnh toàn thân[11,12].

Hầu hết, các bệnh nhân dương tính với covid 19 được báo cáo đã trải qua các tổn thương như:

  • Khô miệng:
  • Tổn thương miệng
  • Biểu hiện và bệnh nha chu
  • Đau miệng mặt

Các nghiên cứu gần đây [6], [7], [8] đã gợi ý rằng khoang miệng có khả năng nhạy cảm cao với nhiễm trùng COVID-19 do sự tồn tại của thụ thể ACE2 và TMPRSS2 trong các tế bào biểu mô của niêm mạc miệng [6] và tuyến nước bọt [2,7,8]. Một nghiên cứu sau khi khám nghiệm tử thi 7 người chết vì COVID-19 đã tìm thấy sự hiện diện của SARS-CoV-2 trong mô nha chu [13]. Các phân tích mô bệnh học đã xác định những thay đổi về hình thái trong các tế bào sừng của biểu mô tiếp giáp, quá trình tạo không bào của tế bào chất, và đa hình nhân và nhân [13]. Sự phân bố của các thụ thể ACE2 có thể giúp xác định con đường lây nhiễm SARS-CoV-2. Sự hiện diện của các thụ thể ACE2 trên màng nhầy miệng và tuyến nước bọt có thể liên quan đến nhiễm trùng COVID-19 và rối loạn chức năng sau đó. Sự tương tác giữa SARS-CoV-2 và ACE2 và sự phân cắt sau đó bởi enzyme TMPRSS2 có thể phá vỡ chức năng của tế bào sừng trong miệng và lớp biểu mô của ống tuyến nước bọt [41], có khả năng dẫn đến tình trạng sức khỏe răng miệng [14] .

Kết quả cho thấy khô miệng là tình trạng sức khỏe răng miệng phổ biến nhất (41%), tiếp theo là tổn thương miệng (38,8%), đau vùng miệng mặt (18,3%) và các triệu chứng nha chu (11,7%). Chúng tôi cũng nhận thấy rằng các triệu chứng nha chu có liên quan đến mức độ nghiêm trọng của COVID-19.

Các phát hiện của tổng quan hệ thống này chỉ ra rằng tình trạng sức khỏe răng miệng có thể trở nên tồi tệ ở những người bị nhiễm COVID-19 và cần được xem xét trong cả giai đoạn khởi phát và tiến triển của bệnh bởi nha sĩ và trung tâm chăm sóc y tế.

Nguồn:

  1. Zhang H., Penninger J.M., Li Y., Zhong N., Slutsky A.S. Angiotensin-converting enzyme 2 (ACE2) as a SARS-CoV-2 receptor: molecular mechanisms and potential therapeutic target. Intensive Care Med. 2020;46:586–590.
  2. Huang N., Pérez P., Kato T., Mikami Y., Okuda K., Gilmore R.C., et al. SARS-CoV-2 infection of the oral cavity and saliva. Nat Med. 2021
  3. Usami Y., Hirose K., Okumura M., Toyosawa S., Sakai T. Brief communication: immunohistochemical detection of ACE2 in human salivary gland. Oral Sci Int
  4. V'kovski P., Kratzel A., Steiner S., Stalder H., Thiel V. Coronavirus biology and replication: implications for SARS-CoV-2. Nat Rev Microbiol. 2021;19:155–170
  5. Singh A., Purohit B.M., Taneja S. Loneliness and disability as predictors of oral diseases among 2 groups of older adults in central India. J Am Dent Assoc.
  6. Xu H., Zhong L., Deng J., Peng J., Dan H., Zeng X., et al. High expression of ACE2 receptor of 2019-nCoV on the epithelial cells of oral mucosa. Int J Oral Sci. 2020;12:8
  7. Pascolo L., Zupin L., Melato M., Tricarico P.M., Crovella S. TMPRSS2 and ACE2 Coexpression in SARS-CoV-2 Salivary Glands Infection. J Dent Res. 2020;99:1120–1121.
  8. Xu J., Li Y., Gan F., Du Y., Yao Y. Salivary glands: Potential reservoirs for COVID-19 asymptomatic infection. J Dent Res. 2020;99
  9. Manzalawi R., Alhmamey K., Abdelrasoul M. Gingival bleeding associated with COVID-19 infection. Clin Case Rep. 2021;9:294–297
  10. Gherlone E.F., Polizzi E., Tetè G., De Lorenzo R., Magnaghi C., Rovere Querini P., et al. Frequent and persistent salivary gland ectasia and oral disease after COVID-19. J Dent Res. 2021
  11. Gomes-Filho I.S., Cruz S.S., Trindade S.C., Passos-Soares J.d.S., Carvalho-Filho P.C., Figueiredo A., et al. Periodontitis and respiratory diseases: a systematic review with meta-analysis. Oral Dis. 2020;26:439–446.
  12. Qi X., Zhu Z., Plassman B.L., Wu B. Dose-response meta-analysis on tooth loss with the risk of cognitive impairment and dementia. J Am Med Dir Assoc. 2021;22:2039–2045
  13. Fernandes Matuck B., Dolhnikoff M., Maia G.V.A., Isaac Sendyk D., Zarpellon A., Costa Gomes S., et al. Periodontal tissues are targets for Sars-Cov-2: a post-mortem study. J Oral Microbiol. 2021;13
  14. Sampson V., Kamona N., Sampson A. Could there be a link between oral hygiene and the severity of SARS-CoV-2 infections? Br Dent J. 2020;228:971–975.
You are here Tin tức Y học thường thức