• Phone: 0235.3851.429
  • Hotline: 19009095
  • Thông tin:

dieuhanhtructuyen

Y học thường thức

Nghiên cứu cho thấy sử dụng kháng sinh không đúng thường do chẩn đoán sai

  • PDF.

Ds Nguyễn Thị Mai

Chẩn đoán sai thường dẫn đến việc sử dụng kháng sinh không đúng cách trong các bệnh viện, nghiên cứu mới phát hiện.

Sử dụng kháng sinh không đúng có thể gây ra tác hại cho bệnh nhân, làm giảm hiệu quả và làm tăng tình trạng kháng thuốc kháng sinh đồng thời  làm tăng chi phí cho người bệnh.

"Liệu pháp kháng sinh được sử dụng cho khoảng 56 % bệnh nhân nội trú tại các bệnh viện Mỹ, nhưng được tìm thấy là không phù hợp trong gần một nửa các trường hợp này, và nhiều trường hợp trong số đó đã thất bại trong điều trị với các chẩn đoán không chính xác”.Filice và các đồng nghiệp đã phân tích 500 trường hợp bệnh nhân nội trú tại Trung tâm y tế Minneapolis VA. Họ phát hiện ra rằng việc sử dụng không hợp lý thuốc kháng sinh xảy ra với 95% bệnh nhân  được chẩn đoán không chính xác hoặc không xác định, hoặc những người có triệu chứng xác định nhưng không có chẩn đoán.Nghiên cứu được công bố trực tuyến ngày 18 tháng 5 trong  Infection Control & Bệnh viện Dịch tễ học , tạp chí  Hiệp hội Y tế Dịch tễ học của Mỹ

su-dungks

Đọc thêm...

Lần cập nhật cuối lúc Thứ bảy, 13 Tháng 6 2015 21:01

Liệu pháp thay huyết tương – một phương thức trị liệu giải cứu bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết nặng và sốc nhiễm khuẩn

  • PDF.

Ths Lê Tự Định - Khoa ICU

ĐẶT VẤN ĐỀ

Một loạt các trường hợp và thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên nhỏ cho thấy liệu pháp thay huyết tương (TPE = Therapeutic Plasma Exchange) đã cải thiện các tình trạng đông máu cũng như huyết động và có thể cả sự sống còn của bệnh nhân trong nhiễm khuẩn huyết nặng. Tuy nhiên, vai trò chính xác của TPE trong trị liệu nhiễm khuẩn huyết hiện đại vẫn còn chưa rõ ràng.

PHƯƠNG PHÁP

Chúng tôi thực hiện một nghiên cứu quan sát đơn trung tâm hồi cứu về việc sử dụng TPE như một liệu pháp giải cứu ở 23 bệnh nhân liên tiếp được chẩn đoán nhiễm khuẩn huyết nặng hoặc sốc nhiễm khuẩn từ năm 2005 đến năm 2012. Các biểu hiện về hội chứng suy đa tạng (MOFS =  Multiple Organ Failure Syndrom) trước, trong và sau khi TPE cũng như tỷ lệ sống sót cũng được báo cáo.

plasma1

Đọc thêm...

Lần cập nhật cuối lúc Thứ bảy, 13 Tháng 6 2015 20:51

Loãng xương và gãy đốt sống phổ biến ở bệnh nhân COPD

  • PDF.

Ths Trình Trung Phong - Khoa Nội Tổng hợp

LOÃNG XƯƠNG ÍT ĐƯỢC ĐIỀU TRỊ Ở BỆNH NHÂN COPD

Cứ khoảng 1trong 5 bệnh nhân bị COPD được phục hồi chức năng phổi là bị loãng xương (LX), nhưng họ lại không được hướng dẫn để điều trị nhằm ngăn ngừa LX.

Bệnh nhân COPD được biết là có nguy cơ cao bị LX. Việc điều trị LX gồm biphosphonat phối hợp với bổ sung calci cùng với vitamin D và can thiệp hành vi. Tuy nhiên vẫn chưa rõ LX có được chẩn đoán và điều trị ở bệnh nhân COPD hay không? Để kiểm tra tỷ lệ điều trị bằng thuốc về loãng xương và xác định các biểu hiện về lâm sàng của LX, nhuyễn xương ở bệnh nhân COPD, Lidwien Graat- Verboom và cộng sự đã nghiên cứu trên 554 bị bệnh phổi tham gia vào chương trình phục hồi chức năng phổi vào khoảng giữa các năm 2005 – 2007.

loangxuon1

Đọc thêm...

Lần cập nhật cuối lúc Thứ bảy, 13 Tháng 6 2015 20:39

Bóp bóng ambu thế nào là đúng cách?

  • PDF.

Bs CKI Đặng Ngọc Thành - Khoa Cấp cứu

Trong quá trình điều trị, chăm sóc người bệnh hàng ngày tại các khoa phòng, chúng ta đều có thể gặp những tai biến và biến chứng xẩy ra. Điều này đôi khi do chính bệnh của người bệnh hoặc do tác dụng không mong muốn của thuốc hoặc các phương pháp điều trị mang lại.

Một trong những tai biến hoặc biến chứng đó là tình trạng suy hô hấp cấp hoặc ngừng thở đột ngột đòi hỏi phải cấp cứu kịp thời ngay tại chỗ để cứu sống người bệnh vì nếu chậm trễ sẽ dẫn đến hậu quả rất nặng nề đó là tình trạng tổn thương não không hồi phục và cuối cùng người bệnh sẽ tử vong.

Trong điều kiện hiện nay, tất cả các khoa, phòng, các cơ sở y tế đều được trang bị những phương tiện cấp cứu cơ bản, trong đó bóng Ambu là một dụng cụ hỗ trợ hô hấp rất tiện lợi và mang lại hiệu quả cao. Nếu bóp bóng đúng cách, đưa được lượng khí cần thiết vào phổi thì người bệnh sẽ hồi phục tốt, hoặc ít ra cũng còn thời gian vận chuyển đến trung tâm hồi sức có máy thở để tiếp tục hồi sức. Ngược lại, nếu không nắm được kỹ thuật bóp bóng Ambu thì dù cấp cứu kịp thời nhưng không đưa khí vào phổi người bệnh mà để lọt ra ngoài (do hở mặt nạ) hoặc khí vào dạ dày quá nhiều thì tình trạng người bệnh sẽ xấu dần và tử vong. Vì vậy, sử dụng thành thạo bóng Ambu và bóp bóng đúng cách là yêu cầu cơ bản đối với mỗi người làm công tác y tế ở tất cả các tuyến. Bóng Ambu nên để gần người bệnh và phải được bảo quản tốt, sửa chữa kịp thời những hư hỏng để luôn luôn sẵn sàng cho việc sử dụng.

II. Kỹ thuật:

1. Chuẩn bị phương tiện:

ambu1

Bóng Ambu và mặt nạ

Đọc thêm...

Protein phản ứng C ( C-reactive protein)

  • PDF.

Khoa Hóa Sinh

SINH LÝ

Protein phản ứng C (CRP) là một glycoprotein được gan sản xuất có đặc điểm là kết tủa với polysaccharid C của phế cầu. Bình thường, không thấy protein này trong máu. Tình trạng viêm cấp với phá hủy mô trong cơ thể sẽ kích thích sản xuất protein này và gây tăng nhanh nồng độ protein phản ứng C trong huyết thanh. Vì vậy, một CRP dương tính chỉ dẫn sự có mặt của một quá trình viêm. Khi tình trạng viêm cấp kết thúc, CRP nhanh chóng mất đi.

Có 2 loại Protein phản ứng C có thể định lượng trong máu:

  1. Protein phản ứng C chuẩn (Standard CRP): Được sử dụng để đánh giá tình trạng viêm tiến triển
  2. Protein phản ứng C siêu nhạy (high-sensitivity CRP (hs-CRP): Chất này được coi như một chất chỉ điểm đối với tình trạng viêm mạch cấp độ thấp

Protein phản ứng C không mang tính chất đặc hiệu và nồng độ protein này gia tăng trong tất cả các tình trạng viêm

MỤC ĐÍCH VÀ CHỈ ĐỊNH XÉT NGHIỆM

- Để đánh giá mức độ và tiến triển của một phản ứng viêm

- Cách lấy bệnh phẩm:

  • Xét nghiệm được tiến hành với huyết thanh bệnh nhân.
  • Sau khi lấy bệnh phẩm nhanh chóng gởi mẫu tới phòng xét nghiêm để định lượng CRP.

GIÁ TRỊ NỒNG ĐỘ CRP

CRP  Bình thường nồng độ CRP : 0-1.0 mg/dl hay < 10 mg/L CRP tăng lên khi cơ thể có phản ứng viêm xảy ra.         

hs- CRP : Để đánh giá nguy cơ mắc bệnh tim mạch

  • < 1 mg/L :Nguy cơ thấp nhất
  • 1-3 mg/L: Nguy cơ trung bình
  • > 3 mg.L : Nguy cơ cao nhất

TĂNG NỒNG ĐỘ PROTEIN PHẢN ỨNG C

Các nguyên nhân chính thường gặp: Viêm tụy cấp, viêm ruột thừa, nhiễm trùng do vi khuẩn, bỏng, tăng nguy cơ bị ung thư đại trạng, bệnh lý ruột do viêm, bệnh do lupus ban đỏ hệ thống, u lympho, nhồi máu cơ tim , bệnh lý viêm của tiểu khung, viêm động mạch tế bào khổng lồ, viêm khớp dạng thấp, tình trạng nhiễm trùng nặng, phẫu thuật, lao tiến triển…

TĂNG NỒNG ĐỘ hs- CRP

Nguyên nhân chính thường gặp là tăng nguy cơ mắc bệnh tim mạch.

CÁC YẾU TỐ GÓP PHẦN THAY ĐỔI KẾT QUẢ XÉT NGHIỆM

  • Kết quả âm tính giả: Dùng các thuốc chống viêm không phải steroid, aspirin, corticosteroid, statin, thuốc chẹn beta giao cảm.
  • Kết quả dương tính giả : Dùng các thuốc hormon thay thế,  thuốc ngừa thai uống.
  • Đặt dụng cụ ngừa thai trong buồng tử cung.
  • Gắng sức,  vận động thể lực quá mạnh.
  • Có thai.
  • Béo phì.

 LỢI ÍCH CỦA XÉT NGHIỆM ĐỊNH LƯỢNG PROTEIN PHẢN ỨNG C (CRP)

  1. CRP điển hình sẽ tăng lên trong vòng 6 giờ kể từ khi bắt đầu tình trạng viêm, điều này cho phép xác định tình trạng viêm sớm hơn nhiều so với khi sử dụng tốc độ lắng hồng cầu ( thường tăng lên sau khi tình trạng viêm xảy ra khoảng 1 tuần). Thêm vào đó nồng độ CRP không bị thay đổi khi có biến đổi về nồng độ glubolin máu và hematocrit, điều này khiến định lượng CRP rất có giá trị khi bệnh nhân có bất thường protein máu hay có bất thường của hồng cầu.
  2. Định lượng các loại Protein phản ứng C có thể cung cấp các thông tin hữu ích:
  •  Đánh giá mức độ tiến triển của phản ứng viêm nhất là đối với bệnh lý mãn tính như bệnh lý ruột do viêm, viêm khớp và các bệnh tự miễn.
  •  Đánh giá một nhiễm trùng mới như trong viêm ruột thừa và các tình trạng sau phẫu thuật.
  •  Theo dõi đáp ứng với điều trị các tình trạng bệnh lý nhiễm trùng nhất là nhiễm trùng do vi khuẩn và viêm.

            - Protein phản ứng C siêu nhạy: Là một yếu tố chính gây tình trạng xuất hiện và đứt rách mảng vữa xơ mạch.Tăng nồng độ hs-CRP dự báo bệnh nhân có nguy cơ bị các sự cố mạch vành, đột quỵ, bệnh động mạch ngoại biên và ĐTĐ typ2. Vì vậy, xét nghiệm này được sử dụng để đánh giá các nguy cơ bị cac sự cố tim mạch khi nó được làm đồng thời với các XN đánh giá nguy cơ mạch vành khác, như định lượng nồng độ cholesterol máu

CÁC HƯỚNG DẪN THỰC HÀNH LÂM SÀNG DỰA TRÊN Y HỌC BẰNG CHỨNG

  • Khi xử lý một số bệnh viêm như viêm khớp dạng thấp, nhiễm trùng da và các bệnh lý viêm tiểu khung, cần tiến hành làm xet  nghiệm cận lâm sàng để đánh giá các chất gây phản ứng pha cấp. Hai xét nghiệm đánh giá các chất gây phản ứng pha cấp ( tốc độ lắng hồng cầu và Protein phản ứng C) là các chỉ dẫn để đánh giá mức độ của phản ứng viêm.
  • Đo nồng độ CRP huyết thanh là xét nghiệm hữu ích trong quyết định sử dụng kháng sinh cho bệnh nhân có các xét nghiệm dịch não tủy phù hợp với chẩn đoán viêm màng não,  nhưng kết quả nhuộm gram tìm vi khuẩn trong dịch não tủy âm tính. Khuyến cáo này được dựa trên các dữ liệu cho thấy xét nghiêm nồng độ CRP trong giới hạn bình thường có giá trị dự đoán âm tính cao trong chẩn đoán viêm màng não do vi khuẩn.
  • Các nghiên cứu gần đây đánh giá lợi ích của định lượng hs-CRP trong dự báo nguy cơ tim mạch, nhất là ở phụ nữ và ở người có hội chứng chuyển hóa, cũng như để dự báo nguy cơ bị ung thư đại tràng và như một chất chỉ điểm cho tình trạng tổn thương phổi tiến triển.

CÁC CẢNH BÁO LÂM SÀNG

Bệnh nhân có tăng nồng độ hs-CRP cần được khuyến cáo áp dụng các biện pháp làm giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch, và có thể cần chỉ định các thăm dò chẩn đoán bổ sung để xác định sự hiện diện của  các bệnh lý tim mạch mới mắc.

Nguồn:

  1. Trích "Các xét nghiệm thường quy áp dụng trong thực hành lâm sàng"
  2. http://en.wikipedia.org/wiki/C-reactive_protein

Lần cập nhật cuối lúc Thứ ba, 09 Tháng 6 2015 21:10

You are here Tin tức Y học thường thức