• Phone: 0235.3851.429
  • Hotline: 19009095
  • Thông tin:

dieuhanhtructuyen

Đào tạo NCKH

Các xét nghiệm chẩn đoán nhồi máu cơ tim

  • PDF.

1. ĐẠI CƯƠNG VỀ NHỒI MÁU CƠ TIM:

- Nhồi máu cơ tim (NMCT) là tình trạng cơ tim bị hoại tử do thiếu máu cục bộ, làm giải phóng các chất có trong tế bào cơ tim vào máu.

- Nhiệm vụ của phòng xét nghiệm:

+ Chứng minh được sự xuất hiện của hoại tử ngay từ khi chưa có những dấu hiệu về lâm sàng

+ Đánh giá được hiệu quả điều trị của các thuốc làm tan huyết khối

+ Xác định được các biến chứng và các yếu tố nguy cơ gây bệnh tim mạch

+ Tìm được một xét nghiệm đặc hiệu cho cơ tim (mà không đặc hiệu cho cơ xương), điều này rất khó vì tim chỉ chiếm 1% toàn bộ khối cơ của cơ thể

NMCtim5

Lần cập nhật cuối lúc Thứ ba, 13 Tháng 11 2012 15:14

Đọc thêm...

Hội chứng Brugada - một nguyên nhân của đột tử do tim (p.5)

  • PDF.

Bs Trần Lâm- Khoa Nội TM

Phần 5 

DIỄN TIẾN LÂM SÀNG, TIÊN LƯỢNG

PHÂN TẦNG NGUY CƠ VÀ TẦM SOÁT

A. Bệnh nhân có triệu chứng

Kết quả nghiên cứu của Atarashi - H cho thấy tỷ lệ không có biến cố tim tích lũy là 67,6% ở nhóm BN Brugada có triệu chứng và 93,4% ở nhóm BN không triệu chứng (hình 26).

Brugada21

Xem toàn văn tại đây

Lần cập nhật cuối lúc Thứ năm, 06 Tháng 12 2012 17:49

Các thuốc chống đông mới dự phòng đột quỵ trong rung nhĩ

  • PDF.

Ths Phan Đồng Bảo Linh

Rung nhĩ (RN) là loạn nhịp thường gặp nhất trong thực hành lâm sàng. Theo Benard Gersh, nó là một trong ba đại dịch của nhân loại thế kỷ 21: suy tim, rung nhĩ và đái tháo đường. Rung nhĩ ảnh hưởng đến khoảng 1-2% dân số chung. Nguy cơ phát triển RN tăng theo tuổi, với mức phổ biến ước tính 0,1% ở những người trẻ dưới 55 tuổi, tăng lên 9,0% ở những người 80 tuổi và già hơn. Nghiên cứu Framingham cho thấy nguy cơ đột quỵ do RN không phải bệnh van tim hậu thấp cao hơn 2 lần bình thường.

RN gây ứ máu trong tâm nhĩ trái hoặc tiểu nhĩ trái, có nguy cơ phát triển huyết khối. Tam chứng Virchow tạo lập huyết khối: ứ trệ máu, rối loạn chức năng nội mạc và tình trạng tăng đông. Vỡ cục huyết khối này có thể dẫn đến tắc động mạch, gây thiếu máu cục bộ, làm phát sinh cơn thiếu máu cục bộ thoáng qua (transient ischemic attack - TIA) hay đột quỵ. RN cơn hoặc dai dẳng có liên quan với tăng gấp năm lần nguy cơ đột quỵ, và một trong năm nguyên nhân đột quỵ hàng đầu là do RN. Ngoài ra, đột quỵ liên quan với RN thì nặng hơn và suy kiệt cơ thể hơn là đột quỵ ở bệnh nhân nhịp xoang bình thường.

Chong_dong_moi1

Nguy cơ đột quỵ do rung nhĩ cơn hay dai dẳng tăng gấp 5 lần

Lần cập nhật cuối lúc Thứ hai, 26 Tháng 11 2012 07:49

Đọc thêm...

Nhiễm trùng ngoại khoa

  • PDF.
1. Khái niệm

Nhiễm trùng ngoại khoa được định nghĩa là tình trạng nhiễm trùng tại vùng mổ hay các vết thương, có thể phải giải quyết bằng các biện pháp ngoại khoa.  Nhiễm trùng ngoại khoa là nguyên nhân đứng hàng thứ hai trong các nguyên nhân nhiễm trùng thường gặp nhất ở BN hậu phẫu (nhiễm trùng tiểu, nhiễm trùng ngoại khoa, nhiễm trùng đường hô hấp dưới).

Nhiễm trùng ngoại khoa được phân thành 3 loại:

-  Nhiễm trùng vết mổ nông (nhiễm trùng ở da và mô dưới da)

-  Nhiễm trùng vết mổ sâu (nhiễm trùng ở lớp cân, cơ)

-  Nhiễm trùng các khoang và tạng (thí dụ viêm phúc mạc, mũ màng phổi, viêm trung thất…).

nhiemtrungNK3

Lần cập nhật cuối lúc Chủ nhật, 11 Tháng 11 2012 20:19

Đọc thêm...

Nhồi máu cơ tim trong và sau mổ

  • PDF.

Nhồi máu cơ tim trong và sau mổ (PMI) là một trong những yếu tố tiên lượng quan trọng nhất liên quan đến tỷ lệ tử vong và di chứng của các phẫu thuật không phải phẫu thuật tim mạch. Trong nghiên cứu lâm sàng Cleveland, tỷ lệ bệnh mạch vành là 36% ở những bệnh nhân phồng động mạch chủ bụng, 28% ở các bệnh nhân thiếu máu chi dưới và 32% ở các bệnh nhân có bệnh động mạch cảnh. Tại Mỹ, trong số 27 triệu bệnh nhân được gây mê khoảng 8 triệu người có bệnh mạch vành đã được chẩn đoán hoặc có các yếu tố nguy cơ và khoảng 500000 bệnh nhân bị nhồi máu cơ tim sau các phẫu thuật không phải phẫu thuật tim mạch. Rất khó đánh giá nguy cơ ở một bệnh nhân cụ thể. Vì vậy sự trao đổi giữa bác sỹ tim mạch và bác sỹ gây mê trước phẫu thuật là rất cần thiết để giảm thiểu các nguy cơ tử vong và tai biến tim mạch trong và sau mổ. Ngày nay có hai quan điểm được đưa ra. Quan điểm thứ nhất cho rằng mục đích chính là cải thiện cuộc sống và những lợi ích về lâu dài sau các phẫu thuật không phải phẫu thuật tim mạch. Gần đây có quan điểm thứ hai cho rằng mục đích của việc đánh giá tình trạng tim mạch trước mổ chỉ để cải thiện tình trạng trong và sau mổ, vì tỷ lệ tử vong của phẫu thuật tái tưới máu vành trước các phẫu thuật không phải tim mạch thường cao hơn tỷ lệ tử vong của các phẫu thuật này.

dong_mach_vanh1

Lần cập nhật cuối lúc Thứ năm, 25 Tháng 10 2012 10:06

Đọc thêm...

You are here Đào tạo