• Phone: 0235.3851.429
  • Hotline: 19009095
  • Thông tin:

dieuhanhtructuyen

Tập san Y học

Các khuyến cáo của WHO trong phòng ngừa và điều trị băng huyết sau sinh năm 2012

  • PDF.

Ths Nguyễn Thị Kiều Trinh

Dịch từ WHO recommendations for the prevention and treatment of postpartum haemorrhage - 2012

A.  Khuyến cáo trong dự phòng Băng huyết sau sanh

1.Việc sử dụng thuốc tăng go tử cung để phòng ngừa băng huyết sau sanh trong giai đoạn ba chuyển dạ được khuyến cáo cho các cuộc đẻ. (Khuyến cáo mạnh,  chứng cứ  mức độ trung bình)

2. Oxytocin (10 IU, IV / IM) là loại thuốc co hồi tử cung được đề nghị để phòng ngừa băng huyết sau sanh, (Khuyến cáo mạnh, chứng cứ mức độ trung bình)

Oxytocin-Bottle

Đọc thêm...

Lần cập nhật cuối lúc Thứ năm, 07 Tháng 3 2013 14:59

Tiểu không kiểm soát khi gắng sức

  • PDF.

Ths Nguyễn Thị kiều Trinh - Khoa Sản

Nguyên nhân

Để giữ nước tiểu và kiểm soát đi tiểu, cấu trúc và hoạt động thần kinh của bàng quang phải bình thường.

Bàng quang người trưởng thành trung bình có thể chứa 350 ml - 550 ml nước tiểu. Hai cơ liên quan trong việc kiểm soát dòng nước tiểu:

  • Cơ thắt, là một cơ hình vòng tròn xung quanh niệu đạo, có tác dụng thắt lại để nước tiểu không rò rỉ ra ngoài.
  • Detrusor, đó là cơ thành bàng quang, giúp bàng quang có thể mở rộng.
sontieugangsuc1

Trong tiểu không kiểm soát do gắng sức (stres urinary incontinence: SUI),  các cơ thắt vùng chậu, các dây chằng và hệ thống nâng đỡ bàng quang và niệu đạo suy yếu. Cơ vòng niệu đạo không thể ngăn chặn nước tiểu chảy khi áp lực ổ bụng tăng lên (như cười, khi ho, hoặc nâng một cái gì đó nặng).. Sự suy yếu các cơ thắt có thể được gây ra bởi:

  • Sinh đẻ
  • Tổn thương vùng niệu đạo
  • Một số loại thuốc
  • Phẫu thuật ở tuyến tiền liệt hay vùng xương chậu

SUI là loại phổ biến nhất của tiểu không tự chủ ở phụ nữ. SUI thường gặp ở những phụ nữ đã hơn một lần mang thai và sinh ngã âm đạo. Nó cũng phổ biến ở những phụ nữ có sa thành âm đạo, sa bàng quang, niệu đạo, hoặc sa trực tràng (sa hoặc dãn vùng chậu).

Đọc thêm...

Lần cập nhật cuối lúc Thứ ba, 19 Tháng 3 2013 21:02

Can thiệp mạch vành qua da theo đường động mạch quay có thể thực hiện ở bệnh nhân choáng tim

  • PDF.

Reuters Health Information, Feb 15, 2013

Theo những nghiên cứu từ Canada và Cộng hòa Czech, can thiệp mạch vành qua da (PCI) theo đường động mạch (ĐM) quay thường an toàn và khả thi ở những bệnh nhân (BN) bị nhồi máu cơ tim ST chênh lên (STEMI) biến chứng choáng tim. Một số phân tích gộp cho thấy so với đường ĐM đùi, PCI qua đường ĐM quay giúp giảm nguy cơ chảy máu và truyền máu, nhưng phần lớn các nghiên cứu này đều loại trừ nhóm BN bị choáng tim.

dmquay

Hình minh họa

Đọc thêm...

Lần cập nhật cuối lúc Thứ bảy, 02 Tháng 3 2013 10:35

Định nghĩa toàn cầu lần thứ 3 về nhồi máu cơ tim của ESC/ACCF/AHA/WHF

  • PDF.

Bs. CKII Trần Lâm

Nguồn: *Kristian Thygesen, Joseph S. Alpert et al. Third universal definition of myocardial infarction. Eur Heart J (2012, doi: 10.1093/eurheartj/ehs184.

*Francisco Moscoso Costa1, Jorge Ferreira1, Carlos Aguiar et al. Impact of ESC/ACCF/AHA/WHF universal definition of myocardial infarction on mortality at 10 years. Eur Heart J (2012) 33 (20): 2544-2550.

Nhồi máu cơ tim (NMCT) là một trong những nguyên nhân hàng đầu của tử vong và tàn phế.  Định nghĩa lần thứ nhất năm 2000 và lần thứ 2 năm 2007 trên cơ sở đồng thuận cao của các tổ chức Hội tim mạch Châu Âu (ESC), Trường môn hiệp hội tim mạch Mỹ (ACCF), Hội tim mạch Mỹ (AHA) và Liên đoàn tim mạch thế giới (WHF) chủ yếu dựa vào đặc điểm lâm sàng, ECG đặc hiệu, tăng các chỉ điểm hóa sinh của hoại tử cơ tim, và có nhấn mạnh đến những tình trạng khác nhau có thể dẫn đến NMCT. Ngày nay, với sự xuất hiện của những kỹ thuật xét nghiệm và hình ảnh học nhạy hơn nhiều cho phép phát hiện các tổn thương hoặc hoại tử mô cơ tim ở những mức độ rất nhỏ, đặc biệt, khi hoại tử xảy ra trong bối cảnh của một tình trạng bệnh nặng, sau những thủ thuật mạch vành qua da hoặc sau phẫu thuật tim. Đây là nền tảng để trong năm 2012 các tổ chức trên đã đồng thuận cho ra đời một định nghĩa mới lần thứ 3 về NMCT với sự chấp nhận của Tổ chức Y tế thế giới (WHO).

Đọc thêm...

Lần cập nhật cuối lúc Thứ sáu, 01 Tháng 3 2013 20:26

Sử dụng monitoring sản khoa trong chuyển dạ

  • PDF.
Bs Nội trú Phan Thị Hồng Ngọc - Khoa Sản
I. MỞ ĐẦU

monitosanTrong sản khoa, “ Mẹ tròn con vuông” là điều ước ao của mọi gia đình, là niềm hy vọng lớn nhất của người phụ nữ chuẩn bị làm mẹ, là trách nhiệm của người bác sĩ sản khoa thông qua việc chăm sóc và xử trí cho cuộc đẻ phải an toàn. Vì vậy, chúng ta phải tận dụng tất cả các tiến bộ của khoa học và nhất là các phương tiện sẵn có trong tay để hoàn thành công việc đỡ đẻ. 

Do bào thai nằm trong tử cung của người mẹ nên chúng ta không thể quan sát nó một cách trực tiếp. Người thầy thuốc sản khoa đang hướng dẫn và xử trí cuộc chuyển dạ sinh buộc phải dựa trên những thông tin gián tiếp về tình trạng của em bé. Đặc biệt trong quá trình chuyển dạ và sinh, khả năng có thể thu thập được các thông tin về tình trạng sức khỏe của bào thai luôn bị hạn chế. Nếu như sự cảm nhận của người mẹ đối với các cử động của thai nhi trong một số trường hợp có thể là một tín hiệu cảnh báo quan trọng trong khi mang thai thì trong khi chuyển dạ, sự cảm nhận này không còn giá trị nữa do có sự xuất hiện của các cơn go tử cung  đều đặn và lặp đi lặp lại gây đau.

Khi chuyển dạ đã tiến triển thì mức độ tỉnh táo của người mẹ  sẽ giảm đi và các cử động của thai sẽ không còn được cảm nhận tốt nữa. Thông tin về cân bằng chuyển hóa toan kiềm của thai nhi trong thực hành hiện nay chỉ được thu thập bằng phương pháp lấy máu da đầu từ phần thai nhi trình diện ở trước – một phương pháp chậm chạp và không hiệu quả, có can thiệp và hầu hết các thầy thuốc đều không ưa chuộng.

Đọc thêm...

Lần cập nhật cuối lúc Thứ năm, 31 Tháng 1 2013 08:17

You are here Đào tạo Tập san Y học