Bs Nguyễn Lương Quang - Khoa Nội TM
Hơn 3 thập niên kể từ khi Captopril là một thuốc ức chế men chuyển đầu tiên được đưa vào điều trị trên lâm sàng, ngày nay các thuốc ức chế men chuyển vẫn được xem là lựa chọn hàng đầu để điều trị các bệnh tim mạch như tăng huyết áp, suy tim... Guideline 2018 của Hội Tim mạch Châu Âu (ESC) điều trị THA vẫn chọn UCMC hoặc ức chế thụ thể angiotenin với mức khuyến cáo IA, đặc biệt cho bệnh nhân THA kèm đái tháo đường, bệnh thận mạn…Tuy nhiên gần đây, có sự hoài nghi liêu UCMC có tăng nguy cơ gây ung thư trong đó có ung thư phổi? Một số bằng chứng sinh học cho thấy mối liên hệ giữa UCMC và nguy cơ ung thư phổi. Việc sử dụng các UCMC gây ra sự tích tụ bradykinin trong phổi, kích thích sự phát triển của ung thư phổi. Sử dụng UCMC cũng dẫn đến tích tụ chất P.45, được biểu hiện trong mô ung thư phổi và có liên quan đến sự tăng sinh khối u và tăng sinh mạch.
Sơ đồ tác dụng hạ huyết áp của thuốc UCMC
Bangalore S, Kumar S, et al. trong một RCT (randomized controlled trials) gồm 324.168 bệnh nhân THA sử dụng UCMC, không tìm thấy bằng chứng về sự gia tăng tỷ lệ mắc ung thư, tuy nhiên thử nghiệm này có thời gian theo dõi ngắn chỉ 3,5 năm.
Vừa mới đây, một nhóm tác giả tại Vương quốc Anh, đã công bố một nghiên cứu có thể nói là chấn động, một nghiên cứu thuần tập gồm 992.061 bệnh nhân mới được điều trị bằng thuốc hạ huyết áp từ ngày 1 tháng 1 năm 1995 đến ngày 31 tháng 12 năm 2015.
Sơ đồ thiết kế nghiên cứu
Kết quả nghiên cứu cho thấy, thời gian nghiên cứu trung bình là 6,4 năm (SD 4,7), thuốc UCMC thường dùng là ramipril (26%; 257.420 bệnh nhân) lisinopril (12%; 120.641), và perindopril (7%; 70.955), biến cố ung thư phổi xảy ra với tỷ lệ 1,3‰/ năm. Nhìn chung, việc sử dụng UCMC tăng nguy cơ ung thư phổi (1,6-1,2‰/ năm; HR 1,14, CI 95% 1,01 -1,29) khi so với sử dụng thuốc chẹn thụ thể angiotensin. Nguy cơ tăng dần với thời gian sử dụng, rõ ràng sau 5 năm sử dụng (HR 1,22, 1,06 đến 1,40) và đạt đỉnh sau hơn 10 năm sử dụng (HR 1,31, 1,08 đến 1,59). Sự khác biệt có ý nghĩa về cả thời gian tích lũy cũng như thời gian sử dụng thuốc liên tục. Tình trạng hút thuốc không làm thay đổi đáng kể mối liên quan giữa việc sử dụng UCMC và nguy cơ ung thư phổi.
Tỷ số nguy cơ thô và hiệu chỉnh liên quan đến sử dụng UCMC và ung thư phổi
Nghiên cứu cũng cho thấy việc sử dụng các UCMC tăng nguy cơ ung thư phổi lên 14%, nguy cơ rõ ràng hơn sau 5 năm sử dụng (22%), tăng lên với thời gian sử dụng dài hơn, đặc biệt là ở những bệnh nhân sử dụng UCMC trong hơn 10 năm (tăng 31% nguy cơ).
Kết quả của nghiên cứu này làm cho chúng ta phải đặt câu hỏi về thuốc UCMC trong điều trị THA, trong khi đây là thuốc được xem như đầu tay của chúng ta, tuy nhiên như chúng ta đã biết đây là phân tích thuần tập hồi cứu, độ mạnh về bằng chứng của nó không được như meta- analysis hay RCT (randomized controlled trials) do đó chúng ta vẫn phải tiếp tục điều trị dùng UCMC cho bệnh nhân, chờ đợi hướng dẫn tiếp theo của các Hội tim mạch, đặc biệt của Hội tim mạch Việt nam. Bên cạnh đó chúng ta cũng chờ xem những thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên, những nghiên cứu lớn hơn với thời gian theo dõi dài hơn, cũng như nghiên cứu các chất ức chế angiotensin mới/chất ức chế Neprilysin sacubitril, mới nổi lên gần đây về hiệu quả cải thiện bệnh tim mạch và tử vong nhưng liệu có tránh được nguy cơ ung thư phổi hay không?
Nguồn: BMJ 24/10/2018;363:k4471
- 20/02/2019 11:33 - Ngộ độc thuốc tê (Local anesthesia systemic toxici…
- 13/01/2019 09:46 - 10 bài viết hàng đầu về tiêu hóa năm 2018: Thông t…
- 06/01/2019 17:22 - Xuất huyết tử cung bất thường
- 19/11/2018 23:33 - Biến chứng chảy máu ở bệnh nhân can thiệp động mạc…
- 15/11/2018 18:21 - Gây mê hồi sức cho các phẫu thuật ngoài tim ở bệnh…
- 19/10/2018 08:59 - Hệ thống dữ liệu và mô tả kết quả hình ảnh tuyến v…
- 10/10/2018 16:09 - COPD và các bệnh đồng mắc
- 04/10/2018 18:46 - Vai trò của MRI trong hoại tử chỏm xương đùi
- 04/10/2018 09:11 - Viêm thực quản tăng bạch cầu ưa acid
- 04/10/2018 09:04 - Vai trò của xét nghiệm Double Test trong sàng lọc …