Bs Đoàn Hoàng - Khoa Nội thận nội tiết
Mức triglyceride máu tăng cao được đặc trưng xảy ra ở người có các bất thường chuyển hóa khác. Những yếu tố cộng vào bao gồm: thừa cân và béo phì, không hoạt động thể lực, uống rượu quá mức, hội chứng chuyển hóa, đái tháo đường týp và những rối loạn về gen( ví dụ: tăng triglyceride máu có yếu tố gia đình; tăng lipid máu hỗn hợp; rối loạn betalipoprotein máu). Cách đây không lâu Hội Nội tiết Hoa Kỳ đã đưa ra những khuyến cáo dựa trên bằng chứng về chẩn đoán và xử trí tăng triglycerid máu ở người lớn.
Chẩn đoán:
Chẩn đoán tăng triglyceride máu nên dựa vào mức triglyceride máu đói. Ngưỡng được Hội nội tiết Hoa Kỳ chọn là từ 150 đến 199 mg/dl ( 1,7-2,3 mmol/l) đgl tăng nhẹ triglyceride máu; 200 đến 999mg/dl (2.3-11.3 mmol/l) được gọi là tăng vừa; 1000 đến 1999mg/dl ( 11.3- 22.6mmol/l) được gọi là tăng nặng; từ trên 2000 mg/dl (22.6mmol/l) được gọi là tăng rất nặng. tăng triglyceride máu nhẹ và vừa có thể là yếu tố nguy cơ của bệnh lý tim mạch, trong khi đó tăng triglyceride máu nặng và rất nặng là tăng nguy cơ viêm tụy. Về những chú ý này, chương trình giáo dục cholesterol quốc gia hoa kỳ, Adult Treatment Panel III( NCEP ATP III) sử dụng theo ngưỡng cutoff: 150 đến 199 mg/dl cho triglyceride máu biên cao; 200 đến 499mg/dl(2.3-5.6 mmol/l) cho triglyceride máu cao và 500mg/dl (5,7mmol/l) hoặc hơn được gọi là rất cao. Tương tự như NCEP ATP III, Hội Nội Tiết Hoa Kỳ khuyến cáo các bác sĩ tầm soát những người trưởng thành với mức triglyceride máu cao xem như một phần của biland lipid máu ít nhất mỗi 5 năm.
Mặc dù những người với tăng triglyceride máu đặc trưng có mức LDL-Cholesterol và HDL- Cholesterol thấp hơn người có mức triglyceride bình thường, kích thước và tỷ trọng các phần tử lipoprotein nên được định được định lượng thường xuyên ở những bệnh nhân này. Định lượng mức apolipoprotein B hoặc lipoprotein A có thể sử dụng trong gợi ý nguy cơ bệnh lý tim mạch ở bệnh nhân có mức LDL cholesterol bình thường, nhưng sự định lượng của những apolipoprotein khác ít có ý nghĩa lâm sàng.
Nguyên nhân tiên phát và thứ phát
Bệnh nhân có triglyceride máu đói cao nên được đánh giá về nguyên nhân tăng triglyceride máu thứ phát và điều trị. Nguyên nhân tăng triglyceride máu thứ phát bao gồm: uống rượu quá mức, đái tháo đường không được điều trị, những tình trạng nội tiết, bệnh lý gan thận, thai nghén, những rối loạn tự miễn, sử dụng thuốc( ví dụ: thiazide; chẹn beta; estrogen; isotretinoin; corticosteroid; resin mang acid mật; thuốc kháng retrovirus; thuốc chống loạn thần; thuốc ức chế miễn dịch. Một sự không rõ ràng đó là tăng tryglycerid máu gây xơ vữa động mạch tuy nhiên đối với tăng tryglycerid máu cao trong nhiều trường hợp là yếu tố nguy cơ bệnh tim mạch hơn là yếu tố ngẫu nhiên. Tuy nhiên, thiếu dữ liệu cho thấy rằng giảm mức triglycerid máu làm giảm nguy cơ bệnh tim mạch, tăng triglycerid máu nên được xem xét là một chỉ điểm đối với một vài bệnh nhân. Do đó để đánh giá nguyên nhân di truyền và nguy cơ tim mạch ở bệnh nhân tăng triglycerid nguyên phát nên được đánh giá về tiền sử gia đình rối loạn lipid máu và bệnh lý tim mạch. Những bệnh nhân này cũng nên được đánh giá về yếu tố nguy cơ tim mạch khác ví dụ: béo phì trung tâm, tăng huyết áp, rối loạn chuyển hóa glucose và rối loạn chức năng gan.
Xử trí
Phần lớn sự tăng triglycerid máu xảy ra ở người trưởng thành nguyên nhân do tăng trọng, ít vận động và chế độ ăn giàu carbohydrat đơn. Điều trị ban đầu ở bệnh nhân với tăng tryglycerid nhẹ và vừa nên bao gồm tư vấn chế độ ăn,giảm cân đối với những người quá cân hoặc béo phì. Đối với bệnh nhân tăng nặng hoặc rất nặng triglycerid máu khuyến cáo giảm nhập chất béo và carbohydrat đơn trong chế độ ăn kèm thuốc để giảm nguy cơ viêm tụy do tăng triglycerid máu. Mục tiêu điều trị của bệnh nhân tăng triglycerid vừa là mức HDL- cholesterol là 30mg/dl (0.78 mmol/l) cao hơn LDL-cholesterol, khuyến cáo bởi NCEP ATP III. Thuốc Fibrat là lựa chọn đầu tay đối với bệnh nhân tăng triglycerid máu gây nguy cơ viêm tụy. Fibrat, niacin, và acid béo n3 đơn độc hay kết hợp nên được xem xét ở bệnh nhân tăng triglycerid vừa đến nặng. Các thuốc statin có một sự giảm mức triglycerid vừa phải(10-15%) có thể có lợi đối với bệnh nhân tăng triglycerid vừa. Không nên sử dụng đơn độc với bệnh nhân tăng triglycerid nặng hoặc rất nặng.
Tài liệu tham khảo
1. Journal of clinical Endocrinology and Metabolism, September 2012.
- 26/03/2018 08:50 - Sử dụng Hemospray trong điều trị xuất huyết cấp đư…
- 23/03/2018 16:29 - Gãy Bennett
- 22/03/2018 16:34 - Vạt nhánh xuyên động mạch hiển
- 21/03/2018 08:45 - Thử nghiệm TSH tuyến giáp
- 19/03/2018 09:13 - Tác dụng dự phòng của liệu pháp chống kết tập tiểu…
- 18/03/2018 15:33 - Qui trình thay huyết tương trong điều trị hội chứn…
- 18/03/2018 15:23 - Liên quan của thiếu máu với những kết cục của suy …
- 13/03/2018 08:17 - Nhân một trường hợp tăng huyết áp trong phản vệ
- 12/03/2018 08:49 - Chấn thương tụy
- 11/03/2018 14:51 - Natri và Kali trong chế độ ăn ở bệnh thận mạn tính