• Phone: 0235.3851.429
  • Hotline: 19009095
  • Thông tin:

dieuhanhtructuyen

Đào tạo nhân viên BV

Tóm tắt khuyến cáo ESC 2024 về chẩn đoán và xử trí hội chứng động mạch vành mạn tính (CCS)

  • PDF.

Bs Nguyễn Tấn Hạnh - 

I. MỞ ĐẦU

Năm 2019, ESC đưa ra thuật ngữ hội chứng động mạch vành mạn (CCS) để mô tả bối cảnh lâm sàng của bệnh lý động mạch vành ở giai đoạn ổn định, đặc biệt đối với những trường hợp trước hoặc sau hội chứng động mạch vành cấp. Dựa trên những hiểu biết thêm về cơ chế bệnh sinh, năm 2024, định nghĩa mới về hội chứng động mạch vành mạn được đề xuất:

“Hội chứng động mạch vành mạn bao gồm những triệu chứng và dấu hiệu lâm sàng do những thay đổi về cấu trúc và/ hoặc chức năng liên quan tới bệnh lý mạn tính của động mạch vành thượng tâm mạc và/ hoặc vi tuần hoàn. Những thay đổi này có thể dẫn đến sự bất tương xứng thoáng qua, có thể đảo ngược giữa cung và cầu dẫn tới hiện tượng giảm tưới máu cơ tim; thường khởi phát sau gắng sức, xúc cảm hay những stress khác, gây nên triệu chứng đau ngực, không thoải mái vùng ngực, khó thở hay thậm chí không có triệu chứng. Mặc dù ổn định trong thời gian dài, bệnh mạch vành mạn tính thường tiến triển và có thể chuyển sang hội chứng vành cấp ở bất kỳ thời điểm nào”.

Bối cảnh của hội chứng động mạch vành mạn bao gồm:

  1. Bệnh nhân có triệu chứng đau ngực hay thiếu máu cơ tim khi gắng sức với sự tắc nghẽn động mạch vành thượng tâm mạc
  2. Bệnh nhân có triệu chứng đau ngực hay thiếu máu cơ tim gây ra bởi sự co thắt bất thường của động mạch vành thượng tâm mạc hay bất thường về cấu trúc/chức năng của hệ thống vi mạch vành (không có sự bất thường của hệ thống động mạch vành thượng tâm mạc) (ANOCA/INOCA).
  3. Bệnh nhân ổn định sau hội chứng động mạch vành cấp hoặc sau tái thông mạch vành.

ccs

Xem tiếp tại đây

Hổ trợ dinh dưỡng trước phẫu thuật

  • PDF.

Bs Lê Tấn Tịnh - 

Kể từ khi bắt đầu áp dụng phẫu thuật, việc giảm thiểu các biến chứng sau mổ và phục hồi sớm đã là hai trong những trụ cột cơ bản thúc đẩy sự cải tiến của kỹ thuật phẫu thuật và xử trí chu phẫu. Mặc dù có những tiến bộ vượt bậc trong những lĩnh vực này, việc hợp lý hóa điều trị dự phòng bằng kháng sinh và những đổi mới quan trọng khác, phục hồi sau phẫu thuật (đặc biệt ở những bệnh nhân lớn tuổi, bệnh lý ung thư hoặc tiêu hóa hoặc phẫu thuật đầu và cổ) là khó khăn. Điều này có thể được giải thích bởi một số lý do, trong đó, suy dinh dưỡng có vai trò chính. Hỗ trợ dinh dưỡng trước phẫu thuật, bao gồm trong phác đồ ERAS (Phục hồi tăng cường sau phẫu thuật), đã được chứng minh là yếu tố chính và là bước quan trọng để đạt được kết quả phẫu thuật tốt hơn. Bắt đầu với việc đánh giá dinh dưỡng trước phẫu thuật và điều trị trong phẫu thuật tự chọn, chúng ta có thể cải thiện tình trạng dinh dưỡng bằng cách sử dụng chất bổ sung đường uống và công thức điều hòa miễn dịch. Nếu chúng ta bổ sung hỗ trợ dinh dưỡng sớm trong tình huống hậu phẫu, chúng ta có thể giảm đáng kể các biến chứng nhiễm trùng, nhu cầu về đơn vị chăm sóc đặc biệt (ICU) và thời gian nằm viện, chi phí và tỷ lệ tử vong. Trong suốt bài đánh giá này, chúng tôi sẽ xem xét những phát triển mới nhất và các tài liệu hiện có.

hotrodd

Xem tiếp tại đây

Bệnh lý túi thừa ruột non

  • PDF.

Ths.Bs Nguyễn Xuân Lâm - 

I. ĐẠI CƯƠNG

Túi thừa ruột non là bệnh lý hiếm gặp với tần suất chung khoảng 1-2%. Túi thừa ruột non có thể được phân loại tùy theo bệnh học, hình thái, vị trí, biểu hiện của triệu chứng và biến chứng. Chúng thường không có triệu chứng và được phát hiện tình cờ trên phương tiện chẩn đoán hình ảnh, nội soi ống tiêu hóa, trong mổ hoặc khi xuất hiện các biến chứng như: viêm túi thừa, thủng, tắc ruột hoặc xuất huyết tiêu hóa.

II. DỊCH TỂ HỌC

Với sự tiến bộ của phương tiện chẩn đoán hình ảnh, tần suất phát hiện tình cờ túi thừa ruột non đang tăng lên. Hiện tại, tần xuất của túi thừa ruột non bẩm sinh và mắc phải khoảng 2-4% (hình 2.1).

Túi thừa Meckel là túi thừa bẩm sinh hay gặp nhất của ống tiêu hóa với tần suất gặp khoảng 2-4%.

tuithuarn

Xem tiếp tại đây

Bệnh đái tháo đường khởi phát ở người trẻ tuổi

  • PDF.

Bs.Vũ Thị Lê Thùy - 

Các dạng bệnh Đái tháo đường phổ biến nhất bao gồm bệnh đái tháo đường týp 1, một rối loạn tự miễn dịch và bệnh đái tháo đường týp 2, một rối loạn đa gen chịu ảnh hưởng của cả yếu tố di truyền và môi trường. Hiện nay, người ta hiểu rằng có nhiều hơn 2 dạng bệnh Đái tháo đường. Bệnh Đái tháo đường khởi phát ở người trẻ (MODY) là một loại bệnh Đái tháo đường đơn gen lần đầu tiên được mô tả là một dạng bệnh Đái tháo đường nhẹ và không có triệu chứng, được quan sát thấy ở trẻ em, thanh thiếu niên và người trẻ tuổi không béo phì. Sự cải thiện lượng đường trong máu đã được quan sát thấy khi điều trị bằng sulfonylurea. Với sự mở rộng của công nghệ di truyền, nhiều gen liên quan đến MODY đã được giải trình tự và mô tả.

NGUYÊN NHÂN

MODY là do khiếm khuyết trong quá trình phát triển tế bào đảo tụy làm suy yếu quá trình tiết insulin. Bệnh thường được di truyền theo kiểu trội trên nhiễm sắc thể thường và bệnh nhân thường có đột biến dị hợp tử. Độ thâm nhập và biểu hiện có thể thay đổi rất nhiều, ngay cả giữa các thành viên trong gia đình và kiểu hình phụ thuộc phần lớn vào gen liên quan. Gen MODY ảnh hưởng đến quá trình tiết insulin thông qua suy yếu khả năng cảm nhận insulin, chuyển hóa glucose trong tế bào beta hoặc kích hoạt kênh kali phụ thuộc adenosine triphosphate (ATP).

Xem tiếp tại đây

Nhiễm nấm candida xâm lấn trong ICU

  • PDF.

Bs Trương Minh Trí - 

Tổng quan

Tỷ lệ mắc bệnh nấm xâm lấn đã tăng gấp năm lần trong thập kỷ qua do hai yếu tố cơ bản. Thứ nhất, ngày càng có nhiều bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch được điều trị và thứ hai, thời gian nằm viện kéo dài tạo điều kiện cho bệnh nấm xâm lấn phát triển. Mặc dù phương tiện chẩn đoán bệnh nấm đã được cải thiện, nhưng chẩn đoán sớm vẫn là một thách thức. Tỷ lệ tử vong và bệnh tật cao liên quan đến nhiễm trùng nấm xâm lấn khiến chẩn đoán sớm đóng vai trò then chốt. Vấn đề bắt nguồn từ thực tế là các bác sĩ lâm sàng thường không xem xét đến các kết quả có thể xảy ra của các bệnh nhiễm trùng này và nguyên nhân gây bệnh không phải lúc nào cũng được xác định đầy đủ.

Dịch tễ học, tỷ lệ mắc bệnh, tử vong

Có 100.000 loài nấm đã biết, trong đó có 400 loài quan trọng về mặt y học. Ít hơn năm mươi loài là tác nhân gây bệnh cho con người. Hầu hết các bệnh nhiễm trùng là bệnh viện và chiếm khoảng 15% các bệnh nhiễm trùng liên quan đến chăm sóc sức khỏe. Các loài Candida gây ra phần lớn các bệnh nhiễm trùng do nấm (70-90%), tiếp theo là các loài Aspergillus (10-20%). EPIC II, (2007) là một nghiên cứu về tỷ lệ lưu hành theo thời gian, kéo dài một ngày, trong đó nêu bật Candida là tác nhân gây bệnh phổ biến thứ ba, gây ra 17% trong số tất cả các bệnh nhiễm trùng. Một nghiên cứu của Thụy Sĩ đã xác nhận rằng một phần ba bệnh máu do nấm xảy ra ở các đơn vị chăm sóc đặc biệt (ICU). Nhiễm trùng Candida xảy ra thường xuyên hơn từ năm đến mười lần (2-6,7 trên 1000 bệnh nhân nhập viện) ở ICU so với các khoa nội hoặc khoa phẫu thuật. Tại Hoa Kỳ, đây là tác nhân gây bệnh phổ biến thứ ba và thứ tư được phân lập từ nuôi cấy máu và chiếm 8-10% các bệnh nhiễm trùng máu. Ở Châu Âu, đây là tác nhân gây bệnh phổ biến thứ sáu đến thứ mười và gây ra 2-3% các ca nhiễm trùng huyết. Theo dữ liệu hiện tại, tỷ lệ tử vong do nhiễm trùng Candida xâm lấn được coi là cao. Các nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng tỷ lệ này dao động trong khoảng 40-60% và trong một số điều kiện nhất định, tỷ lệ tử vong có thể lên tới 100%. Dịch tễ học của nấm Candida đã thay đổi trong 20 năm qua. Trong khi trước đây, Candida Albicans là tác nhân gây bệnh chiếm ưu thế và gây ra hai phần ba các ca nhiễm trùng, thì hiện nay, số lượng các loài không phải Albicans ngày càng tăng có thể được nhận thấy và gây ra gần 50% các ca nhiễm trùng. Chúng bao gồm C. glabrata , C. krusei , C. tropicalis và C. parapsilosis.

Xem tiếp tại đây

Lần cập nhật cuối lúc Thứ ba, 17 Tháng 12 2024 15:51

You are here Tổ chức Đào tạo nhân viên BV