• Phone: 0235.3851.429
  • Hotline: 19009095
  • Thông tin:

dieuhanhtructuyen

Đào tạo nhân viên BV

Tiền oxy hóa và phòng ngừa tụt oxy trong quản lý đường thở cấp cứu

  • PDF.

Bs Trần Minh Quang - 

TÓM TẮT

Bệnh nhân cần xử lý đường thở khẩn cấp có nguy cơ cao bị tụt oxy máu do bệnh lý phổi nguyên phát, nhu cầu chuyển hóa cao, thiếu máu, suy giảm khả năng hô hấp, và không thể bảo vệ đường thở chống lại nguy cơ hít sặc. Việc đặt nội khí quản thường cần thiết ngay cả khi chưa có đầy đủ thông tin để đánh giá nguy cơ thiếu oxy máu quanh thủ thuật, chẳng hạn như khí máu động mạch, giá trị hemoglobin, hoặc X-quang ngực. Bài báo này tổng quan các kỹ thuật dự trữ oxy và cung cấp oxy trong giai đoạn đặt nội khí quản nhằm giảm nguy cơ thiếu oxy nghiêm trọng, đồng thời giới thiệu một mô hình phân tầng nguy cơ để dự đoán khả năng tụt oxy máu.

GIỚI THIỆU

Quản lý đường thở khẩn cấp luôn tiềm ẩn rủi ro. Nhiều bệnh nhân cấp cứu bị thiếu oxy máu hoặc tụt oxy máu nặng trước khi can thiệp đặt nội khí quản được thực hiện. Mặc dù mục tiêu của đặt nội khí quản là cải thiện quá trình oxy hóa, nhưng bản thân thủ thuật này lại làm gián đoạn hô hấp và có thể dẫn đến thiếu oxy nghiêm trọng nếu không được chuẩn bị và thực hiện đúng cách.

tihnoxy

Phần lớn các ca đặt nội khí quản khẩn cấp diễn ra trước khi có kết quả xét nghiệm khí máu động mạch, hemoglobin, hoặc hình ảnh học. Ngoài ra, các tình huống cấp cứu như co giật, ngừng tim, phù phổi, hoặc chấn thương sọ não không cho phép trì hoãn để có thêm thông tin. Do đó, bác sĩ phải áp dụng những chiến lược tối ưu hóa oxy hóa ngay cả khi thông tin bệnh nhân còn thiếu sót.

Tiền oxy hóa và các phương pháp cung cấp oxy quanh thời điểm đặt nội khí quản (per-intubation) là những công cụ thiết yếu nhằm ngăn ngừa thiếu oxy máu trong thủ thuật. Dưới đây, chúng tôi mô tả các kỹ thuật này và đề xuất một hệ thống phân tầng nguy cơ giúp hướng dẫn lựa chọn chiến lược phù hợp.

Xem tiếp tại đây

Nôn nghén quá độ

  • PDF.

BS Nguyễn Thế Tuấn - 

Ốm nghén, với các triệu chứng buồn nôn và nôn, là một dấu hiệu khá phổ biến ở phụ nữ mang thai, thường xuất hiện vào khoảng tuần thứ 9 của thai kỳ và giảm dần sau đó. Tuy nhiên, khoảng 1 đến 1,5% phụ nữ mang thai có thể mắc phải nôn nghén quá độ. Tình trạng này được định nghĩa là buồn nôn và nôn dữ dội, dai dẳng trong thai kỳ, dẫn đến:

  • Sụt cân từ 5% trở lên so với cân nặng trước khi mang thai.
  • Mất nước.
  • Rối loạn điện giải.

Nôn nghén quá độ có thể kéo dài suốt thai kỳ và gây ra nhiều biến chứng nghiêm trọng nếu không được điều trị kịp thời.

I. Nguyên nhân gây nôn nghén quá độ

Mặc dù nguyên nhân chính xác của nôn nghén quá độ vẫn chưa được xác định rõ ràng, có một số yếu tố được cho là đóng vai trò quan trọng:

  • Hormone thai kỳ: Nồng độ cao của beta-hCG (Human Chorionic Gonadotropin), một loại hormone do nhau thai sản xuất, được xem là yếu tố chính. Nồng độ beta-hCG thường đạt đỉnh vào khoảng thời gian mà các triệu chứng nôn nghén quá độ trở nên nghiêm trọng nhất.
  • Estrogen: Nồng độ estrogen tăng cao cũng có thể góp phần vào các triệu chứng.
  • Yếu tố di truyền: Tiền sử gia đình có người mắc nôn nghén quá độ hoặc bản thân đã từng bị ở những lần mang thai trước có thể làm tăng nguy cơ.
  • Đa thai: Phụ nữ mang đa thai thường có nồng độ hormone cao hơn, do đó nguy cơ mắc HG cũng cao hơn.
  • Các bệnh lý liên quan: bệnh lý tuyến giáp, cường giáp thoáng qua cũng có thể liên quan đến nôn nghén quá độ.

nonghen

Đọc thêm...

Tổn thương thận cấp: Bắt đầu điều trị thay thế thận khi nào và như thế nào

  • PDF.

Bs Phạm Thị Ny Na - 

Tổn thương thận cấp (AKI) ảnh hưởng đến 50% bệnh nhân nhập viện tại khoa chăm sóc đặc biệt (ICU) và có liên quan đến nguy cơ tử vong và bệnh thận tiến triển cao hơn. Liệu pháp thay thế thận (RRT) được bắt đầu ở một nhóm nhỏ đáng kể bệnh nhân nguy kịch bị AKI tuy nhiên, vẫn còn nhiều tranh cãi về thời điểm và cách thức triển khai RRT. Chúng tôi tổng hợp các nghiên cứu mới nhất và đưa ra các khuyến nghị chi tiết về việc chỉ định RRT để điều trị AKI tại ICU.

Khi nào nên bắt đầu RRT

Các trường hợp không cần RRT ngay lập tức: AKI không có biến chứng đe dọa tính mạng. Cuộc tranh luận về thời điểm RRT tối ưu đã được đưa ra dựa trên một số thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên. Thông điệp chung từ các thử nghiệm này là việc bắt đầu RRT khi không có biến chứng đe dọa tính mạng, ngay cả khi có AKI giai đoạn 2 hoặc 3 của KDIGO, không mang lại lợi ích sống còn. Chiến lược trì hoãn có thể giúp tránh được RRT ở tới 50% bệnh nhân, nhờ sự cải thiện tự nhiên chức năng thận được quan sát thấy trong hầu hết các trường hợp. Trong một thử nghiệm chứng minh lợi ích của việc bắt đầu RRT sớm hơn, nhiều bệnh nhân bị quá tải thể tích, một yếu tố kích hoạt phổ biến cho việc bắt đầu RRT. Do đó, khả năng diễn giải kết quả còn nhiều thách thức. Không có phân nhóm bệnh nhân nào dường như được hưởng lợi đặc biệt từ RRT sớm hơn. Ngược lại, chiến lược bắt đầu RRT sớm có thể dẫn đến tỷ lệ tử vong cao hơn khi không có thiểu niệu và có thể làm tăng nguy cơ phụ thuộc lọc máu lâu dài, đặc biệt ở những bệnh nhân có bệnh thận mạn tính từ trước.

aki1

Hình 1

Đọc thêm...

Lần cập nhật cuối lúc Thứ hai, 21 Tháng 7 2025 20:17

Kháng sinh trong nhiễm trùng sản phụ khoa và vấn đề kháng thuốc

  • PDF.

Bs Huỳnh Công - 

Nhiễm trùng sản phụ khoa là một thách thức lớn trong y học hiện đại, không chỉ gây ra bệnh suất và tử suất đáng kể ở phụ nữ mà còn đặt ra gánh nặng lớn cho hệ thống y tế. Trong bối cảnh tình hình kháng kháng sinh ngày càng trầm trọng, việc hiểu rõ về nguyên nhân, tác nhân gây bệnh, đặc biệt là các chủng vi khuẩn kháng thuốc, cùng với các chiến lược điều trị và dự phòng hiệu quả trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Theo báo cáo của WHO, 7% phụ nữ mắc nhiễm trùng hậu sản, trong đó tỷ lệ tại châu Á là 11%.

I. Nguyên nhân

Nhiễm trùng sản phụ khoa bao gồm các tình trạng viêm nhiễm ở đường sinh dục dưới (âm đạo, cổ tử cung) và đường sinh dục trên (tử cung, vòi trứng, buồng trứng), cũng như các nhiễm trùng liên quan đến quá trình thai sản và phẫu thuật.

Nguyên nhân gây bệnh thường xuất phát từ:

  • Vi khuẩn từ hệ vi sinh vật bình thường: Nhiều vi khuẩn thường trú ở âm đạo, đường ruột (như Streptococcus agalactiae – GBS, Escherichia coli, Bacteroides spp., Enterococcus faecalis) có thể trở thành tác nhân gây bệnh khi có điều kiện thuận lợi.
  • Vi khuẩn lây truyền qua đường tình dục (STIs): Các tác nhân như Chlamydia trachomatis, Neisseria gonorrhoeae, Mycoplasma genitalium có thể gây ra các nhiễm trùng nặng ở đường sinh dục trên.
  • Vi khuẩn từ môi trường bệnh viện: Đặc biệt trong nhiễm trùng vết mổ hoặc nhiễm trùng hậu sản, các chủng vi khuẩn bệnh viện như Staphylococcus aureus (bao gồm MRSA) hoặc Pseudomonas aeruginosa là những mối lo ngại.

kssan

Xem tiếp tại đây

Lần cập nhật cuối lúc Thứ ba, 15 Tháng 7 2025 08:55

Cập nhật xử trí cai rượu

  • PDF.

BS. Huỳnh Minh Nhật - 

GIỚI THIỆU

Rượu gây ra nhiều vấn đề sức khỏe bao gồm rối loạn sử dụng rượu và cai rượu. Những người phụ thuộc vào rượu có thể trải qua các dấu hiệu và triệu chứng của việc cai rượu khi ngừng hoặc giảm sử dụng rượu, do sự đảo ngược đột ngột tác động ức chế lên chức năng não.

Cai rượu thường khởi phát 6-24 giờ sau lần uống cuối cùng và có thể xảy ra trước khi nồng độ cồn trong máu đạt mức 0. Thông thường, cai rượu diễn ra ngắn và tự khỏi sau 2-3 ngày nhưng có thể kéo dài đến 10-14 ngày.

Các biểu hiện cai rượu được chia thành 3 nhóm chính:

  • Thay đổi thần kinh tự chủ: đổ mồ hôi, sốt, tăng huyết áp, nhịp tim nhanh, run tay
  • Rối loạn tiêu hóa: chán ăn, buồn nôn, nôn, khó tiêu
  • Biến đổi hệ thần kinh trung ương: lo âu, mất ngủ, co giật, ảo giác, hoang tưởng, mê sảng

Co giật xảy ra ở khoảng 5% số người cai rượu, khoảng 6-24 giờ sau lần uống cuối cùng, vì vậy thường xảy ra trước khi nhập viện. Co giật thuộc loại co giật toàn thân và khoảng 75% trường hợp chỉ có một lần co giật.

Mục tiêu chính của việc xử trí cai rượu là giảm thiểu rủi ro vật lý, chấn thương tâm lý và tử vong liên quan đến cai rượu cũng như giảm bớt sự khó chịu cho bệnh nhân. Quá trình này giúp bệnh nhân hoàn thành việc cai rượu an toàn và tạo điều kiện cho việc tham gia điều trị lâu dài hơn để giảm tác hại của rượu.

Cai rượu không phải là một phương pháp điều trị độc lập mà là một phần của hành trình điều trị tổng thể rối loạn sử dụng rượu. Lập kế hoạch điều trị sau cai nghiện nên bắt đầu vào thời điểm bắt đầu một đợt cai rượu được hỗ trợ.

cai

Xem tiếp tại đây

Lần cập nhật cuối lúc Thứ năm, 10 Tháng 7 2025 09:08

You are here Tổ chức Đào tạo nhân viên BV