• Phone: 0235.3851.429
  • Hotline: 19009095
  • Thông tin:

dieuhanhtructuyen

Y học thường thức

Răng và tuổi thọ của con người

  • PDF.

Bs Nguyễn Minh Đức - 

Chúng ta còn sống bao lâu nữa? Đó là một câu hỏi hóc búa mà nhiều người trong chúng ta đã từng nghĩ đến. Bây giờ có vẻ như chúng ta đã tiến gần hơn một bước đến câu trả lời và tất cả những gì chúng ta phải làm là đếm số lượng răng chúng ta có. 

Một nghiên cứu mới về việc mất răng và tỷ lệ tử vong đã tiết lộ số lượng răng chúng ta có có tương quan đáng kể với tuổi thọ của chúng ta.

Kết quả cho thấy những người có 20 chiếc răng trở lên ở tuổi 70 có cơ hội sống lâu hơn đáng kể so với những người có ít hơn 20 chiếc răng. 

Theo Tiến sĩ Nigel Carter OBE - Giám đốc điều hành của tổ chức từ thiện sức khỏe răng miệng thuộc Quỹ Sức khỏe Nha khoa Anh Quốc, sức khỏe răng miệng luôn là một dấu hiệu đáng tin cậy để đánh giá sức khỏe của toàn bộ cơ thể chúng ta. 

Tiến sĩ Carter cho biết: “Các chỉ số sức khỏe răng miệng như bệnh nướu răng thường xuyên có liên quan đến một loạt các vấn đề sức khỏe chung như bệnh tim, đau tim, đột quỵ, tiểu đường, sa sút trí tuệ và các vấn đề khi mang thai. 

"Nhiều bệnh về sức khỏe răng miệng (chẳng hạn như bệnh nướu răng) hoàn toàn có thể phòng ngừa được và do vệ sinh răng miệng kém gây ra. Bằng cách chăm sóc răng miệng tốt, không chỉ răng miệng của chúng ta sẽ có lợi mà toàn bộ cơ thể sẽ cảm nhận được những thay đổi tích cực." 

Ngay từ năm 1978, Khảo sát Sức khỏe Nha khoa Người lớn đầu tiên cho thấy một phần ba (37%) người Anh không có răng tự nhiên. Năm đó tuổi thọ trung bình là 73 tuổi.

Ngày nay, có đến một phần hai mươi (khoảng 6%) không có răng tự nhiên của họ và tuổi thọ đã tăng lên khoảng 81 tuổi. 

Nghiên cứu được công bố trong ấn bản mới nhất của tạp chí Nha khoa Cộng đồng và Dịch tễ học răng miệng. Trước khi hình thành đánh giá, sự khác biệt về giới tính, chỉ số BMI, trình độ học vấn, tình trạng hút thuốc và tiền sử bệnh mãn tính của những người tham gia đều được ghi lại và tính đến 

Nguồn:

  1. HIROTOMI T (2015) ‘Number of teeth and 5-year mortality in an elderly population', Community Dentistry and Oral Epidemiology 2015; 43; 226-231
  2. Annlia Paganini-Hill, Stuart C. White,and Kathryn A. Atchison (2011), Journal of Aging Research, “Dental Health Behaviors, Dentition, and Mortality in Elderly: The Leisure World Cohort Study”

Lần cập nhật cuối lúc Thứ sáu, 30 Tháng 9 2022 16:35

Các yếu tố rủi ro và dấu hiệu cảnh báo tự tử

  • PDF.

CN Phan Minh Tự - 

(Nhân ngày phòng chống tự tử 10/9) 

Hiểu các vấn đề liên quan đến tự tử và sức khỏe tâm thần là một cách quan trọng để tham gia vào việc ngăn chặn tự tử, giúp đỡ những người khác trong cơn khủng hoảng và thay đổi cuộc trò chuyện xung quanh vấn đề tự tử.

Theo thống kê của Trung tâm phòng chống khủng khoảng tâm lý, ở Việt Nam thanh thiếu niên thuộc độ tuổi từ 15 – 24 là nhóm lứa tuổi có ý định tự sát cao hơn cả, và tỷ lệ nữ giới có ý định tự sát cao gấp hai lần so với nam. Điều tra quốc gia về vị thành niên và thanh niên Việt Nam (năm 2010) đối với hơn 10.000 người trong nhóm tuổi này cho thấy, 4,1% người nghĩ đến chuyện tự tử, 25% đã tìm cách kết thúc cuộc sống. Các số liệu trên như một hồi chuông báo động về nạn tự tử ở vị thành niên hiện nay và vấn đề không thể xem nhẹ.

tutu 

Đọc thêm...

Lần cập nhật cuối lúc Thứ tư, 07 Tháng 9 2022 20:52

Bệnh đậu mùa khỉ

  • PDF.

BS Huỳnh Thị Tố Nữ - 

Bệnh đậu mùa khỉ là một bệnh lây truyền từ động vật sang người do vi rút đậu mùa khỉ (Monkeypox virus) gây ra. Bệnh có nguồn gốc từ châu Phi, lây truyền từ động vật sang người và từ người sang người qua tiếp xúc trực tiếp với tổn thương da, dịch cơ thể, giọt bắn đường hô hấp, vật dụng của người bị nhiễm và lây truyền từ mẹ sang con. Có biểu hiện phát ban dạng mụn nước hoặc mụn mủ, đau và thường kèm theo sốt, khó chịu và nổi hạch.

1. Tác nhân gây bệnh

Monkeypox virus là vi rút ADN chuỗi kép có vỏ bọc, thuộc loài Orthopoxvirus, họ Poxviridae, lần đầu tiên được phân lập trên loài khỉ vào năm 1958 tại Viện huyết thanh Statens, Copenhagen, Đan Mạch.

Hình thái: có dạng hình khối chữ nhật với các cạnh được vê tròn, có kích thước khoảng 280 - 320 nm  x 200 - 250 nm. Lõi của vi rút là một nucleotid với vật liệu di truyền là ADN.
- Vi rút đậu mùa có sức đề kháng cao. Ở vảy mụn đậu khô và ở nhiệt độ phòng, vi rút sống được nhiều tháng. Tuy nhiên, dễ bị bất hoạt bởi chất diệt khuẩn, bởi nhiệt độ > 550C và tia tử ngoại. Vi rút có thể lưu giữ lâu dài trong điều kiện đông khô hoặc bảo quản trong glycerin.

Nguồn bệnh và vật chủ chính của virus đậu mùa khỉ là các loại động vật linh trưởng (khỉ, vượn, tinh tinh) và các loại gặm nhấm (sóc, chuột, chuột túi). Người bệnh và người nhiễm vi rút đậu mùa khỉ cũng là một nguồn bệnh quan trọng.

Bệnh lây truyền từ động vật sang người khi có tiếp xúc với máu, nước bọt hoặc giọt bắn ở đường hô hấp hoặc tiếp xúc với dịch tiết của vết thương trên cơ thể. Bệnh cũng có thể lây truyền từ người sang người khi có tiếp xúc trực tiếp với các tổn thương ngoài da, chất tiết, chất thải đường hô hấp, giọt bắn với người bệnh mắc bệnh. Bệnh cũng có thể lây truyền gián tiếp thông qua các vật dụng, đồ dùng sinh hoạt có chứa mầm bệnh như khăn mặt, chăn, ga trải giường. Có trường hợp ăn phải thịt động vật bị bệnh hoặc bị nhiễm vi rút đậu mùa khỉ chưa được nấu chín.

daumuakhi

Đọc thêm...

Lần cập nhật cuối lúc Thứ tư, 05 Tháng 10 2022 16:28

Hậu quả của mất răng lâu ngày

  • PDF.

 Bs Nguyễn Minh Đức - 

Những tác động lâu dài của việc mất răng có thể rất nguy hiểm. Bạn có biết rằng khi bạn bị mất răng, điều này làm cho mô nướu và xương hàm cũng bị thoái hóa không? Kết quả là, bạn không chỉ mất răng. Bạn cũng làm mất hình dạng tự nhiên của nụ cười và khuôn mặt của bạn.

Những ảnh hưởng hàng đầu của mất răng lâu dài là gì?

1. Mất xương vĩnh viễn

Mối quan tâm lớn nhất khi xử lý mất răng là mất xương vĩnh viễn.. Kết quả khi xương xung quanh mất đi làm giảm khả năng nâng đỡ hàm của bạn, ảnh hưởng xấu đến hoạt động và hình dáng của cung hàm, gây khó khăn cho các thủ thuật nếu đến nha sĩ sau khi đã mất răng lâu (khó khăn trong làm phục hình, thậm chí cả cấy ghép Implant…). Bạn cũng có thể bị đau đặc biệt đau khớp thái dương tăng lên do các răng định vị không chính xác trong xương hàm.

matrang1

Đọc thêm...

Lần cập nhật cuối lúc Thứ ba, 04 Tháng 10 2022 10:06

Hiệu quả lâm sàng của điều trị steroid ngắn hạn trong phẫu thuật kết hợp xương cột sống cổ lối trước đa tầng

  • PDF.

Bs Đoàn Kim Nhựt - 

Bối cảnh: Chứng khó nuốt là biến chứng thường gặp sau phẫu thuật lấy đĩa đệm và hàn xương cột sống cổ lối trước (ACDF), có liên quan chặt chẽ đến sự phù nề mô mềm phía trước cột sống cổ (PSTS). Một số nghiên cứu đã cho thấy Methylprednisolone tại chỗ hoặc toàn thân có hiệu quả chống phù nề thanh quản và tắc nghẽn đường thở.

Mục đích: Đánh giá hiệu quả của việc sử dụng ngắn hạn Methylprednisolone toàn thân trong việc giảm khó nuốt và PSTS trong thời gian nằm viện.

Mẫu nghiên cứu: 40 bệnh nhân trải qua phẫu thuật ACDF đa tầng.

Phương pháp: 20 bệnh nhân được tiêm tĩnh mạch 250 mg Methylprednisolone bốn lần một ngày trong vòng 24 giờ sau khi phẫu thuật (cách nhau mỗi 6 giờ), trong khi 20 bệnh nhân còn lại không được dùng Methylprednisolone làm mẫu đối chứng. Tác giả sử dụng thang điểm Bazaz để so sánh mức độ khó nuốt giữa các nhóm bệnh nhân trong thời gian nằm viện và sử dụng hình ảnh bên của cột sống cổ để đánh giá mức độ PSTS trước và sau phẫu thuật từ C2 đến C7. Cuối cùng, tác giả đánh giá các biến chứng của việc sử dụng steroid.

Kết quả: Mức độ khó nuốt theo thang điểm Bazaz ít nghiêm trọng hơn ở nhóm được dùng Methylprednisolone (giá trị p; Ngày hậu phẫu [POD] 25 <0,05, POD 6 = 0,014, POD 7 = 0,019). Sưng nề mô mềm cũng thấp hơn đáng kể ở nhóm được dùng Methylprednisolone (giá trị p; POD 2POD 5 <0,005, POD 1 = 0,061, POD 6 = 0,007, POD 7 = 0,091). Số lượng bệnh nhân mắc PSTS và chứng khó nuốt không phụ thuộc vào giới tính, tuổi tác, tiền sử hút thuốc hoặc thời gian phẫu thuật. Thời gian nằm viện ở nhóm thực nghiệm ngắn hơn so với nhóm chứng. Không có biến chứng liên quan đến việc sử dụng steroid được tìm thấy.

Kết luận: Sử dụng ngắn hạn Methylprednisolone toàn thân sau ACDF dường như có hiệu quả trong việc làm giảm chứng khó nuốt và PSTS. Hơn nữa, việc sử dụng Methylprednisolone trong thời gian ngắn không liên quan đến bất kỳ tác dụng phụ nào như loét dạ dày tá tràng hoặc nhiễm trùng sau phẫu thuật. Việc sử dụng methylprednisolone trên lâm sàng để làm giảm chứng khó nuốt và giảm PSTS đáng được xem xét trong thời gian đầu hậu phẫu.

Nguồn: Song KJ, Lee SK, Ko JH, Yoo MJ, Kim DY, Lee KB. The clinical efficacy of short-term steroid treatment in multilevel anterior cervical arthrodesis. Từ Pubmed.

Lần cập nhật cuối lúc Thứ ba, 30 Tháng 8 2022 15:53

You are here Tin tức Y học thường thức