- NT-pro BNP: N-terminal pro B-type natriuretic peptide
- BNP là viết tắc của B-type Natriuretic Peptide (Peptide lợi niệu type B) hay Brain Natriuretic Peptide, được phát hiện vào năm 1988. Sở dĩ có chữ “Brain” vì chất này lần đầu được phân lập từ não heo. B-type Natriuretic peptide được dùng rộng rãi hơn. Thứ tự phát hiện ra NP như sau: ANP, BNP, CNP. Các peptide được gọi chung là peptide nội tiết tim mạch hay peptide lợi niệu. ANP được phóng thích chủ yếu từ nhĩ, CNP được phóng thích chủ yếu từ tế bào nội mạc mạch máu.
II. Cấu trúc sinh hóa và sinh học phân tử NP
NP: có 3 dạng peptide là ANP, BNP, CNP. Dạng tiền chất của mỗi chất được mã hóa bằng mỗi hệ gen khác nhau nhưng sự phân bố và điều hòa tại tổ chức của chúng thì giống nhau.
- ANP do tâm nhĩ bài tiết. Một số hormone và các chất trung gian thần kinh như endothelin, vasopressin và catecholamine trực tiếp kích thích bài xuất ANP. Ngoài ra, sự tăng áp suất thành tâm nhĩ, tăng thể tích máu cũng là những tác nhân kích thích phóng thích ANP. Nồng độ của ANP gia tăng ở bệnh nhân có tăng thể tích trong lòng mạch cũng như ở bệnh nhân suy tim sung huyết. Một số ít ANP được bài xuất bởi mô thất ở người trưởng thành ngoài ra còn thấy trong mô thất của phôi thai, nhũ nhi và nhũng mô thất phì đại.
- BNP được phân lập từ não lợn, nó cũng hiện diện trong não và trong tâm thất người. Dạng tiền chất BNP có 18 acid amin phân chia thành phân tử BNP trưởng thành có 32 acid amin trong đó chứa một cấu trúc hình nhẫn tạo bởi 17 acid amin. Các acid amin được in đậm là các acid amin giống nhau của các phân tử BNP. Cả hai lưu hành trong huyết tương và nồng độ của chúng cao ở bệnh nhân phì đại tâm thất hoặc suy tim sung huyết.
- PrePro–BNP có 134 acid amin được loại bỏ 26 acid amin để trở thành Pro–BNP có 108 acid amin. Pro–BNP gồm 2 phần là NT–ProBNP (từ acid amin thứ 1 đến acid amin thứ 76) và BNP (từ acid amin thứ 77 đến acid amin thứ 108) sẽ được phân tách thành BNP hoạt động và NT-pro BNP không hoạt động dưới tác dụng của enzyme protease purin.
- CNP có 2 phân tử là 22 và 53 acid amin đã được phân lập.phân tử có 22 acid amin hiện diện nhiều trong hệ thần kinh trung ương, tiền yên, thận, tế bào nội mạc và huyết tương. Nồng độ CNP trong máu rất thấp.
III. Cơ chế sự phóng thích NT- proBNPCác NP được phóng thích từ tâm thất khi áp lực thất và thể tích máu tĩnh mạch trở về tăng lên. Các NP làm giảm thể tích máu đến mức bình thường qua tác động hợp đồng ở não thượng thận,thận và mạch máu. Tại hệ thần kinh trung ương, các NP ức chế sự thèm muối và cảm giác khát, ức chế sự tiết Vasopressin và Corticotropin và giảm lưu lượng máu ở não. Tại thận, có sự gia tăng các GMP vòng nội bào làm ức chế kênh Natri và dẫn đến bài xuất Natri trong nước tiểu. Tác dụng lợi tiểu này được tăng cường thông qua sự ức chế Renin,cũng như ức chế tác dụng của Vasopressin trên ống góp. Tác dụng sinh lý hợp đồng này đã làm thể tích máu trở về mức bình thường.
*Nguyên tắc xác định NT – ProBNP:
Phương pháp miễn dịch định lượng điện hóa phát quang (electroluminescence): NT- proBNP được xác định bằng sự kết hợp giữa kháng nguyên của mẫu với kháng thể đặc hiệu NT- pro BNP - Kỹ thuật Sandwich.
*Giá trị bình thường
Bình thường nồng độ NT- proBNP là <125pg/ml
*Ý nghĩa lâm sàng
+ Các peptid thải Natri niệu được phóng thích nhanh chóng sau tổn thương thiếu máu cơ tim cấp.
+ Thiếu máu cơ tim gây tăng tình trạng căng giãn của tế bào cơ tim, dẫn đến rối loạn chức năng tâm thu và/hoặc tâm trương thất trái là tác nhân quan trọng gây phong thích NT-proBNP huyết thanh
+ Nồng độ NT-proBNP tăng cao sau NMCT cấp mức độ tăng phụ thuộc vào kích thước của ổ nhồi máu:
. Với những ổ nhồi máu nhỏ, nồng độ NT-proBNP chỉ có một pha đạt cực đại ở 20 giờ sau khi xuất hiện triệu chứng
.Với những ổ nhồi máu lớn, nồng độ NT-proBNP đạt cực đại vào ngày thứ năm sau xuất hiện triệu chứng
+ Nếu nồng độ NT-proBNP vẫn ở mức cao kéo dài 1 hoặc 2 tháng sau NMCT cấp gợi ý một tình trạng suy tim, như vậy định lượng nồng độ NT- pro BNP được xem là một phương pháp có hiệu quả trong tiên lượng bệnh nhân suy tim. NT- pro BNP được bài tiết chính từ tâm thất và chịu trách nhiệm trong việc tăng áp suất buồng thất, sức căng thành cơ tim. Như vậy nồng độ NT-pro BNP tăng liên quan đến sự suy giảm chức năng tim và tiên lượng đột tử ở những bệnh nhân này.
+ NT- proBNP có giá trị tiên lượng cao ở nhóm bệnh nhân không triệu chứng và đánh giá được các giai đoạn ở bệnh nhân suy tim.
+ Giá trị bình thường của NT-proBNP được phân theo giới và tuổi cho khả năng dự báo âm tính cao để loại trừ các bệnh lý tim mạch
+ Nồng độ NT-proBNP tăng cao gấp 4 lần bình thường đều có khả năng bị bệnh lý tim mạch
+ Thời gian bán hủy (phút) của NT-proBNP là 60-120 phút khá dài so với BNP là 22 phút, tương tự tính ổn định NT-proBNP là 72 giờ. Thụ thể thanh thải của NT-proBNP chủ yếu là thận do vậy độ lọc cầu thận của NT-proBNP mạnh hơn nhiều so với BNP
+ Ngoài ra cũng có nhũng nguyên nhân khác làm tăng hoặc giảm nồng độ NT-proBNP
Khoa Hóa Sinh sưu tầm
- 31/01/2013 08:08 - Sử dụng monitoring sản khoa trong chuyển dạ
- 14/01/2013 20:24 - Liệu pháp huyết tương giàu tiểu cầu trong điều trị…
- 11/01/2013 09:01 - Phương pháp nghiên cứu khoa học trong y học - Hình…
- 08/01/2013 09:10 - Phẫu thuật nội soi sau phúc mạc hai trocar điều tr…
- 31/12/2012 20:58 - Những câu chuyện tim mạch học lớn nhất năm 2012
- 13/12/2012 19:40 - Ung thư dạ dày
- 09/12/2012 14:47 - Khái niệm bán cầu ưu thế, vấn đề thuận tay và rối …
- 06/12/2012 14:44 - Cập nhật về bệnh viêm khớp dạng thấp
- 06/12/2012 10:07 - Xử trí nhiễm khuẩn huyết nặng và sốc nhiễm khuẩn
- 04/12/2012 10:40 - Vai trò của siêu âm trong chẩn đoán và điều trị bệ…