BSCK1. Bùi Văn Hội
Khoa Phục hồi chức năng
Thoái hóa khớp là bệnh khớp mạn tính rất thường gặp và là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây đau và giảm, mất khả năng vận động ở người cao tuổi tại hầu hết các nước trên thế giới. Năm 2010, ở Mỹ có trên 27 triệu người mắc bệnh thoái hóa khớp trong khi con số này ở Anh là trên 8 triệu người. Ở Việt Nam chưa có thống kê chính xác nào nhưng thoái hóa khớp chiếm tỷ lệ cao trong các bệnh lý cơ xương khớp.
Trong số các vị trí thoái hóa khớp như thoái hóa khớp ngoại biên (khớp gối, háng, bàn tay) và thoái hóa cột sống thì thoái hóa khớp gối chiếm tỷ lệ cao. Theo ước tính của tổ chức Y tế thế giới, trên thế giới vào năm 2000, tỷ lệ thoái hóa khớp gối là 1770 trên 100.000 nam giới và 2693 trên 100.000 nữ giới. Tại Mỹ, tỷ lệ thoái hóa khớp gối gây triệu chứng chiếm khoảng 4,9% người lớn trên 26 tuổi, 16,7% người lớn trên 45 tuổi và 12,1% người lớn trên 60 tuổi. Tại một số nước châu Á, tỷ lệ thoái hóa khớp gối gây triệu chứng trên dân số nói chung chiếm tỷ lệ 0,9% ở nam giới và 1,1% ở nữ giới.
Việc điều trị bệnh hiện nay là gánh nặng rất tốn kém cho cá nhân người bệnh nói riêng và toàn xã hội nói chung với chi phí điều trị cao, hiệu quả chưa đạt được như mong muốn trong khi có nhiều tai biến nặng nề. Các phương pháp điều trị bao gồm giáo dục bệnh nhân về cách phòng ngừa bệnh, chống các tư thế xấu, giảm các yếu tố nguy cơ gây nặng bệnh kết hợp điều trị nội khoa và ngoại khoa. Điều trị nội khoa bao gồm các biện pháp không dùng thuốc như vật lý trị liệu: chiếu tia hồng ngoại, chườm nóng, tắm suối khoáng, đắp bùn… thường đơn giản, dễ làm, ít biến chứng song hiệu quả chưa cao. Các biện pháp dùng thuốc giảm đau, thuốc chống viêm không steroid có hiệu quả nhanh chóng nhưng do tác động toàn thân hay gây nhiều biến chứng như viêm loét dạ dày hành tá tràng, xuất huyết tiêu hóa, tăng huyết áp, tổn thương gan, thận… trong đó có biến chứng nặng có thể gây tử vong. Tiêm corticoid tại khớp gối có tác dụng cải thiện triệu chứng nhanh chóng nhưng dùng kéo dài có thể gây tổn thương thoái hóa sụn khớp hoặc gây biến chứng tại chỗ như phản ứng viêm khớp do tinh thể thuốc, nhiễm khuẩn khớp.
Tiêm acid hyalorunic (chất nhờn) vào khớp có tác dụng tái tạo chức năng bảo vệ, bôi trơn và chống xóc cho khớp nhưng theo nhiều nghiên cứu cho thấy hiệu quả không ổn định lâu dài, không có chức năng bảo vệ, tái tạo sụn khớp. Nhìn chung, các biện pháp nội khoa hiện nay điều trị thoái hóa khớp gối chủ yếu nhằm hai mục đích: giảm đau và cải thiện chức năng vận động khớp, tức là vẫn điều trị triệu chứng bệnh chứ chưa đạt tới đích cải thiện được chất lượng sụn khớp hay làm ngừng quá trình thoái hóa. Điều trị ngoại khoa bao gồm đục xương chỉnh trục, nội soi khớp can thiệp, thay khớp gối nhân tạo một phần hay toàn phần chỉ được chỉ định trong những trường hợp có biến đổi giải phẫu khớp hoặc ở giai đoạn muộn của bệnh và thường gây tốn kém nhiều cho bệnh nhân.
Như vậy việc nghiên cứu tìm ra một kỹ thuật điều trị mới, thực sự tác động tới sự phục hồi sụn, độc lập hoặc phối hợp tốt với các phương pháp điều trị hiện tại nhằm đem lại kết quả cao trong điều trị bệnh, hạn chế các biến chứng và nhu cầu thay khớp nhân tạo là một việc làm cấp thiết. Có nhiều biện pháp đang được nghiên cứu như liệu pháp tế bào gốc tự thân nguồn gốc trung mô (tủy xương hoặc mô mỡ), liệu pháp huyết tương giàu tiểu cầu tự thân đã mở ra một hướng mới điều trị bảo tồn thoái hóa khớp với đích tác động tới căn nguyên của bệnh là sụn khớp. Từ 20 năm nay, liệu pháp huyết tương giàu tiểu cầu (PRP) tự thân đã được sử dụng rộng rãi trên lâm sàng và hiện nay đang được áp dụng điều trị cho bệnh nhân thoái hóa khớp gối tại khoa Cơ Xương Khớp, bệnh viện Bạch Mai- Hà nội. Tác dụng chung của PRP là thúc đẩy nhanh quá trình lành vết thương, rút ngắn thời gian điều trị bệnh, làm giảm nhiễm trùng sau phẫu thuật, giảm đau và mất máu. Trong chuyên ngành cơ xương khớp, liệu pháp PRP tự thân được sử dụng rất nhiều trong các bệnh lý liên quan đến chấn thương thể thao, viêm gân và các điểm bám tận, kích thích sự lành vết thương phần mềm cũng như làm nhanh liền xương sau phẫu thuật. Trên thế giới, trong khoảng vài năm trở lại đây, có một số nghiên cứu đã chứng tỏ PRP tự thân tiêm trực tiếp vào trong khớp là một liệu pháp có triển vọng trong điều trị thoái hóa khớp gối với cơ chế là PRP chứa các yếu tố tăng trưởng thúc đẩy sự tăng sinh của sụn khớp, trong khi đó liệu pháp này hầu như không có biến chứng đáng kể.
Tóm lại, với tác động vào cơ chế bệnh sinh của bệnh thoái hóa khớp, kỹ thuật tách chiết PRP đơn giản, an toàn do lấy máu tự thân, liệu pháp điều trị PRP đang hứa hẹn là một trong những lựa chọn điều trị tốt cho bệnh nhân thoái hóa khớp gối.
Huyết tương giàu tiểu cầu (PRP- Platelet rich plasma) được định nghĩa là một thể tích huyết tương tự thân có nồng độ tiểu cầu cao gấp nhiều lần mức cơ bản. Bình thường số lượng tiểu cầu trong máu khoảng từ 140.000 đến 400.000 tiểu cầu/ μl máu (trung bình 200.000), trong khi đó số lượng tiều cầu trong PRP cao hơn gấp nhiều lần, từ 2- 8 lần, so với mức trung bình. Sở dĩ cần một nồng độ lớn tiểu cầu trong PRP để điều trị vì vai trò quan trọng và chủ yếu của tiểu cầu trong liệu pháp PRP để điều trị nhiều bệnh lý khác nhau. Khi tiểu cầu được hoạt hóa sẽ dẫn đến quá trình ly giải các hạt α của tiểu cầu, từ đó giải phóng ra nhiều loại protein có vai trò quan trọng đối với quá trình làm lành vết thương. Có thể kể ra đây mộtsố protein quan trọng:
- Platelet-derived growth factor (PDGF- αα, ββ, αβ): yếu tố tăng trưởng có nguồn gốc từ tiểu cầu có tác dụng hóa ứng động đối với đại thực bào- thu hút đại thực bào tới nơi tổn thương; phối hợp PDGF với TGF- β, IGF có tác dụng thúc đẩy tăng trưởng mạch máu, phân chia tế bào, hình thành da và chất căn bản xương, tổng hợp collagen.
- Transforming growth-factor-beta (TGF-β, β1, β2): yếu tố tăng trưởng chuyển dạng beta có tác dụng thúc đẩy các tế bào gốc nguồn gốc trung mô (sụn, xương, cơ, sợi….) và các nguyên bào xương… phân bào tạo sụn, xương, cơ, sợi…; thúc đẩy quá trình khoáng hóa của xương (khi phối hợp với PDGF).
- Vascular endothelial growth factor (VEGF): yếu tố tăng trưởng nội mạc mạch máu, thúc đẩy hình thành mạch máu.
- Epidermal growth factor (EGF): yếu tố tăng trưởng biểu bì, thúc đẩy tăng trưởng tế bào và sự biệt hóa, hình thành mạch máu, hình thành collagen.
- PDEGF (platelet-derived endothelial growth factor): yếu tố tăng trưởng nội mô nguồn gốc tiểu cầu.
- PDAF (platelet-derived angiogenesis factor) : yếu tố tăng sinh mạch nguồn gốc tiểu cầu.
- ECGF (epithelial cell growth factor): yếu tố tăng trưởng tế bào biểu mô.
- Fibroblast growth factor-2 (FGF-2): yếu tố tăng trưởng nguyên bào sợi-2, thúc đẩy tăng trưởng của các tế bào biệt hóa và hình thành mạch máu.
- Insulin-like growth factor (IGF): yếu tố tăng trưởng giống Insulin, một điều tiết sinh lý học bình thường trong gần như mọi loại tế bào của cơ thể.
- 07/03/2013 14:47 - Các khuyến cáo của WHO trong phòng ngừa và điều tr…
- 05/03/2013 20:43 - Tiểu không kiểm soát khi gắng sức
- 02/03/2013 10:28 - Can thiệp mạch vành qua da theo đường động mạch qu…
- 01/03/2013 20:08 - Định nghĩa toàn cầu lần thứ 3 về nhồi máu cơ tim c…
- 31/01/2013 08:08 - Sử dụng monitoring sản khoa trong chuyển dạ
- 11/01/2013 09:01 - Phương pháp nghiên cứu khoa học trong y học - Hình…
- 08/01/2013 09:10 - Phẫu thuật nội soi sau phúc mạc hai trocar điều tr…
- 31/12/2012 20:58 - Những câu chuyện tim mạch học lớn nhất năm 2012
- 14/12/2012 14:28 - NT-pro BNP - một xét nghiệm mới để chẩn đoán và sà…
- 13/12/2012 19:40 - Ung thư dạ dày