• Phone: 0235.3851.429
  • Hotline: 19009095
  • Thông tin:

dieuhanhtructuyen

Chương trình “Phẫu thuật miễn phí cho trẻ khe hở môi – vòm miệng năm 2025” – Đăng ký, khám sàng lọc lần 1 từ 05/05/2025 đến 30/05/2025 – Liên hệ: Bs CK2 Nguyễn Minh Đức 0905309192 - Xem mục THÔNG BÁO

Đào tạo nhân viên BV

Chẩn đoán và điều trị suy thượng thận liên quan Glucocorticoids

  • PDF.

BSCKII. Lê Tự Định - 

GIỚI THIỆU

Ít nhất 1% dân số sử dụng liệu pháp glucocorticoid mạn tính như thuốc chống viêm và ức chế miễn dịch. Hầu như mọi chuyên ngành y học đều áp dụng glucocorticoid qua nhiều đường dùng (uống, hít, nhỏ mũi, trong khớp, tại chỗ và tiêm tĩnh mạch), và thường xuyên trong thời gian dài. Sự ức chế của trục hạ đồi-tuyến yên-tuyến thượng thận (HPA) là tác dụng tất yếu của liệu pháp glucocorticoid ngoại sinh mạn tính và sự phục hồi chức năng tuyến thượng thận rất khác nhau giữa các cá nhân. Suy thượng thận liên quan glucocorticoid cần được giáo dục và quản lý cẩn thận, và trong những trường hợp cơn suy thượng thận cấp, việc chẩn đoán và điều trị phải kịp thời. Xét thấy việc sử dụng rộng rãi glucocorticoid và nguy cơ mắc bệnh suy thượng thận do glucocorticoid gây ra, hướng dẫn thực hành lâm sàng hiện hành đã công bố hướng dẫn về tình trạng liên quan đến lâm sàng này để hỗ trợ các chuyên gia nội tiết, cũng như bác sĩ đa khoa và các chuyên gia khác có liên quan đến việc chăm sóc những đối tượng này.

DỊCH TỄ HỌC VỀ LIỆU PHÁP GLUCOCORTICOID

Kể từ lần đầu tiên được mô tả vào cuối thập niên 1940, glucocorticoid vẫn là tác nhân nền tảng trong điều trị nhiều tình trạng bệnh lý, từ các bệnh tự miễn, rối loạn viêm và phản ứng dị ứng nghiêm trọng đến việc ngăn ngừa thải ghép và là tác nhân chống ung thư cho các khối u tân sinh về huyết học. Các nghiên cứu trước đó ước tính rằng tỷ lệ sử dụng glucocorticoid đường uống là khoảng 1% dân số người trưởng thành ở Vương quốc Anh và Hoa Kỳ. Dựa trên dân số hơn 65.000 bệnh nhân đã đăng ký với bác sĩ đa khoa vào năm 1995 tại Vương quốc Anh, glucocorticoid đường uống liên tục (> 3 tháng) được kê đơn cho 0,5% tổng dân số và 1,4% bệnh nhân từ 55 tuổi trở lên. Dữ liệu bổ sung từ Vương quốc Anh cho thấy đơn thuốc glucocorticoid dài hạn tăng từ 0,59% lên 0,79% ở bệnh nhân tuổi trưởng thành trong giai đoạn 1989-2008. Trong một nghiên cứu dựa trên dân số từ Đan Mạch, tỷ lệ kê đơn glucocorticoid toàn thân hàng năm trong chăm sóc ban đầu được phát hiện là 3% với tỷ lệ cao đáng kể ở người cao tuổi lên tới 10% trong giai đoạn1999 - 2015.

suy tt

Xem tiếp tại đây

Vai trò của Dutasteride trước phẫu thuật trong việc giảm chảy máu trong phẫu thuật nội soi niệu đạo cắt đốt tuyến tiền liệt (TURP)

  • PDF.

Bs Nguyễn Quốc Việt - 

1. Giới thiệu

Nội soi niệu đạo cắt đốt tuyến tiền liệt (Transurethral Resection of the Prostate - TURP) là phương pháp điều trị phổ biến cho bệnh nhân tăng sinh tuyến tiền liệt lành tính (BPH). Một trong những biến chứng chính của TURP là chảy máu trong quá trình phẫu thuật, có thể làm kéo dài thời gian mổ, tăng nguy cơ truyền máu và các biến chứng hậu phẫu. Gần đây, việc sử dụng Dutasteride ( nhóm 5 ARI) trước phẫu thuật được xem là một giải pháp tiềm năng giúp giảm thiểu tình trạng chảy máu trong TURP. Ngoài ra thuốc 5ARI đường uống có thể làm giảm tình trạng tiểu máu dai dẳng ở cả bệnh nhân tăng sinh lành tính tuyến tiền liệt và ung thư tuyến tiền liệt.

2. Cơ chế tác động của Dutasteride

Dutasteride là một chất ức chế 5-alpha reductase, có tác dụng ngăn chặn quá trình chuyển đổi testosterone thành dihydrotestosterone (DHT). Nhờ đó, thuốc có thể ảnh hưởng trực tiếp đến hệ thống mạch máu và kích thước tuyến tiền liệt theo các cơ chế sau:

duta

Xem tiếp tại đây

Lần cập nhật cuối lúc Thứ năm, 06 Tháng 3 2025 15:09

Các yếu tố nguy cơ gây ung thư biểu mô tế bào gan

  • PDF.

Bs. Lê Trung Nghĩa - 

Ung thư biểu mô tế bào gan (HCC) là khối u ác tính nguyên phát ở gan thường phát triển trong bối cảnh bệnh gan mãn tính, đặc biệt ở những bệnh nhân bị xơ gan hoặc nhiễm virus viêm gan B mãn tính. Khoảng 75% khối u gan nguyên phát là HCC, trong đó ung thư đường mật chiếm phần lớn các trường hợp còn lại

DỊCH TỂ HỌC:

Tỷ lệ mắc và tử vong: Ung thư gan và đường mật trong gan là bệnh ác tính được chẩn đoán phổ biến thứ sáu trên toàn thế giới, với khoảng 900.000 ca mới được báo cáo vào năm 2020. Ngoài ra, ung thư gan nguyên phát là nguyên nhân gây tử vong liên quan đến ung thư phổ biến thứ ba trên toàn thế giới, với hơn 830.000 ca tử vong vào năm 2020 . Với tỷ lệ sống sót sau năm năm là khoảng 21%, ung thư gan là một trong những khối u đường tiêu hóa gây tử vong nhiều nhất. Tỷ lệ mắc và tỷ lệ tử vong do ung thư gan nguyên phát đã tăng lên ở nhiều nơi trên thế giới, bao gồm Bắc Mỹ, Mỹ Latinh và Trung Âu. Tại Hoa Kỳ, tỷ lệ tử vong do ung thư gan đã thay đổi theo thời gian , ban đầu tăng trong nhiều thập kỷ nhưng sau đó ổn định hoặc giảm. Những xu hướng này được cho là do phát hiện ngày càng nhiều HCC tại chỗ.  

Biến thể địa lý: Tỷ lệ mắc HCC trên toàn thế giới thay đổi tùy theo vị trí địa lý. Người ta ước tính rằng 72% các trường hợp HCC xảy ra ở Châu Á, 10% ở Châu Âu, 8% ở Châu Phi, 5% ở Bắc Mỹ và 5% ở Châu Mỹ Latinh. Mông Cổ có tỷ lệ mắc ung thư gan cao nhất (93,7 trên 100.000), nhưng Trung Quốc có số ca mắc lớn nhất do tỷ lệ mắc cao (18,3 trên 100.000) và dân số đông. Sự khác biệt về tỷ lệ mắc HCC có thể là do sự khác biệt theo khu vực về mức độ tiếp xúc với vi-rút viêm gan và các tác nhân gây bệnh trong môi trường. Ví dụ, tần suất người mang vi-rút viêm gan B tương đối cao ở những khu vực có tỷ lệ mắc HCC cao hơn so với những khu vực có tỷ lệ mắc thấp hơn.

kgan1

Xem tại đây

Lần cập nhật cuối lúc Thứ tư, 05 Tháng 3 2025 15:04

Các thủ thuật chẩn đoán bệnh lý tuyến vú

  • PDF.

BS Nguyễn Thị Kiều Trinh - 

Để chẩn đoán bệnh lý tuyến vú, sau khi chẩn đoán bằng hình ảnh học, các nhà lâm sàng có thể thực hiện các thủ thuật chẩn đoán tế bào học và mô bệnh học. Ngoài việc chẩn đoán, thủ thuật sinh thiết tuyến vú bằng hút chân không có thể vừa chẩn đoán và điều trị.

  • Chọc hút tế bào bằng kim nhỏ (FNA): Thủ thuật đơn giản với kim đầu nhỏ (tương đương kích thước kim lấy máu) cho phép bác sĩ lấy các tế bào của khối u trong mô vú đi làm xét nghiệm.
  • Sinh thiết vú bằng kim lớn (CNB) hay sinh thiết lõi: Kỹ thuật này sử dụng một loại kim dài hơn, kích thước để lại trên da cỡ bằng hạt mụn nhỏ.
  • Sinh thiết tuyến vú bằng thiết bị hút chân không (VAB): Kỹ thuật sinh thiết vú có hỗ trợ hút chân không có sự tương đồng với kỹ thuật sinh thiết bằng kim lớn. Tuy nhiên với sự hỗ trợ nhẹ nhàng của một máy hút chân không, mô vú được hút vào đầu kim khá nhiều, nhưng kim chỉ cần đưa qua da một lần khiến cho tổn thương để lại trên da rất nhỏ, gần như khó thấy.
  • Sinh thiết qua phẫu thuật, còn gọi sinh thiết qua mổ hở: Khi sang thương của người bệnh quá lớn hay quá nghi ngờ ác tính, bác sĩ sẽ dùng dao để tạo một đường rạch trên da vú để lấy sinh thiết hoặc loại bỏ khối u đó một cách triệt để. Sau đó sẽ làm xét nghiệm mô học để đánh giá mức độ lành hay ác của khối này.

sinhthietvu

Sinh thiết vú là một kỹ thuật cần độ chính xác cao. Do đó, hầu như các trường hợp lấy mẫu mô đều được bác sĩ thực hiện với sự định hướng của siêu âm vú, nhũ ảnh (chụp Xquang tuyến vú) hoặc trong một vài trường hợp là chụp cộng hưởng từ tuyến vú (MRI).

Muốn biết thêm chi tiết, xin tham khảo bài tại đây.

Lần cập nhật cuối lúc Thứ ba, 25 Tháng 2 2025 15:36

Cấy máu

  • PDF.

CN Nguyễn Văn Thọ - 

Cấy máu là kỹ thuật xét nghiệm y khoa dùng để phát hiện vi khuẩn hoặc vi nấm trong máu của người bệnh.Trong điều kiện bình thường, máu không chứa vi sinh vật. Sự hiện diện của chúng trong máu có thể chỉ ra tình trạng nhiễm trùng máu như: nhiễm khuẩn huyết hoặc nhiễm nấm huyết. Bằng cách nuôi cấy máu, vi khuẩn có thể được xác định và xét nghiệm khả năng kháng thuốc kháng sinh, cho phép bác sĩ lâm sàng đưa ra phương pháp điều trị hiệu quả.

Để thực hiện xét nghiệm, máu được lấy vào các lọ chứa môi trường dinh dưỡng dạng lỏng giúp tăng cường sự phát triển của vi khuẩn, được gọi là môi trường nuôi cấy. Thông thường, hai lọ được thu thập trong một lần cấy máu, một lọ được thiết kế cho các sinh vật hiếu khí cần oxy và lọ thứ hai lọ dành cho các sinh vật kỵ khí không cần oxy. Hai lọ này được gọi là một bộ cấy máu. Đôi khi, hai bộ cấy máu được thu thập từ hai vị trí lấy máu khác nhau. Nếu một sinh vật chỉ xuất hiện ở một trong hai bộ, thì khả năng cao là nó bị nhiễm hệ vi khuẩn trên da hơn là nhiễm trùng máu thực sự. Kết quả âm tính giả có thể xảy ra nếu mẫu được lấy sau khi người đó đã dùng thuốc kháng sinh hoặc nếu lọ không chứa đủ lượng máu được khuyến nghị từ nhà sản xuất. Một số sinh vật không phát triển tốt trong nuôi cấy máu và cần các kỹ thuật đặc biệt để phát hiện.

Các chai cấy máu được đặt vào máy cấy máu trong vài ngày để các sinh vật phát triển. Nếu phát hiện thấy sự phát triển của vi khuẩn, một phiến đồ nhuộm Gram được tiến hành từ chai nuôi cấy để xác nhận rằng các sinh vật có mặt và cung cấp thông tin sơ bộ về danh tính của chúng. Sau đó, máu được cấy chuyển lại, nghĩa là máu được cấy lên một đĩa thạch để phân lập các khuẩn lạc vi khuẩn để xác định đầy đủ và thử nghiệm khả năng nhạy cảm với thuốc kháng sinh. Vì nhiễm trùng máu cần được chẩn đoán và điều trị nhanh chóng, nên các phương pháp xét nghiệm nhanh đã được phát triển bằng cách sử dụng các công nghệ như phản ứng chuỗi polymerase và MALDI-TOF MS .

caymau

Hình ảnh Hệ thống máy cấy máu tự động BD Bactec FX40 tại Khoa Vi Sinh Bệnh viện Đa khoa Quảng Nam

Xem tiếp tại đây

You are here Tin tức Đào tạo nhân viên BV