Lần cập nhật cuối lúc Thứ sáu, 18 Tháng 3 2016 19:44
Ds Trần Thị Kim San
Thuốc chống đông kháng vitamin K là các thuốc chống đông đường uống sử dụng cho bệnh nhân có nguy cơ huyết khối. Hiện nay các thuốc kháng vitamin K đã trở thành phát đồ điều trị cơ bản trong liệu pháp chống đông. Tuy nhiên, nguy cơ xảy ra bệnh lí do thuốc trong nhóm thuốc này (các phản ứng bất lợi do thuốc gây ra), đặc biệt là nguy cơ chảy máu rất cao. Vì vậy nó đòi hỏi sự giám sát nghiêm ngặt của bác sĩ và sự tuân thủ của bệnh nhân.
A.Các loại thuốc kháng đông uống
Hai loại thuốc kháng đông dạng uống thường sử dụng tại Việt Nam là Acenocoumarol và Warfarin
1. Acenocoumarol (1mg, 4mg ) Được dùng phổ biến tại Việt Nam. Thời gian bán hủy 8-11 giờ. Liều dùng: Người lớn: Khởi đầu 4mg/ngày; Trẻ em: 0,05 đến 0,14mg/kg/ngày
2. Warfarin (2mg, 5mg) Được dùng phổ biến trên thế giới. Thời gian bán hủy 35-45 giờ. Liều dùng: Người lớn: Khởi đầu: 5mg/ngày; Trẻ em: 0,09 đến 0,32mg/kg/ngày.
Lần cập nhật cuối lúc Thứ hai, 29 Tháng 2 2016 13:49
Bs Lê Thị Hà - Khoa Mắt
Dịch tễ học: Vào khoảng 70 triệu người lớn ở Mỹ đã dùng những thuốc bổ sung hay những liệu pháp thay thế từ năm 1997 đến 2002. Các thuốc này gồm: thuốc có nguồn gốc thực vật, châm cứu, phép chữa vi lượng, chữa bằng lòng tin, bằng chiêm nghiệm (meditation), liệu pháp vitamin liều lớn (đại liều), liệu pháp xúc giác, tập luyện, thay đổi chế độ ăn uống.... đã chiếm tần xuất khoảng 5%.
1. Vitamin liều cao: các loại vitamin đã giữ vai trò cơ bản trong chuyển hoá của toàn cơ thể nhưng thiếu vitamin không gây glôcôm ở người. Phân tích dữ kiện của các nghiên cứu trước đây cho thấy không có sự liên quan giữa việc dùng các chất chống oxýt hoá trong khẩu phần ăn với nguy cơ bị glôcôm góc mở nguyên phát ngoại trừ hậu quả của VitC liều cao cho truyền tĩnh mạch làm biến đổi độ thẩm thấu có huyết thanh gây glôcôm đóng góc cấp. Các vitamin với liều thật cao đã không có lợi gì cho bệnh nhân bị glôcôm. Hiện nay không có một dữ kiện khoa học nào cho biết vitamin với liều thật cao giúp ích cho glôcôm.
Lần cập nhật cuối lúc Thứ sáu, 26 Tháng 2 2016 20:19
Ds Nguyễn Thị Thúy Hằng
Cụm từ thuốc chống viêm không steroid (viết tắt NSAID) dường như không mấy xa lạ với người sử dụng thuốc tuy nhiên không phải ai cũng hiểu rõ được tác dụng,cơ chế tác dụng cũng như các biến chứng do thuốc gây ra trong quá trình sử dụng thuốc.
Thuốc chống viêm không steroid- NSAIDs là một nhóm thuốc bao gồm các thuốc có hoạt tính chống viêm và không chứa nhân steroid. Nhóm này bao gồm nhiều dẫn chất có thành phần hoá học khác nhau nhưng có chung cơ chế tác dụng là ức chế các chất trung gian hoá học gây viêm, quan trọng nhất là prostaglandine - điều này lý giải phần lớn các hiệu quả của thuốc, đồng thời cũng giải thích tác dụng phụ của nhóm thuốc chống viêm không steroid. Đa số các thuốc trong nhóm cũng có tác dụng hạ nhiệt và giảm đau. Các thuốc chống viêm không steroid chỉ làm giảm các triệu chứng viêm mà không loại trừ được các nguyên nhân gây viêm, không làm thay đổi tiến triển của quá trình bệnh lý chính.
Tác dụng chống viêm: Thuốc có tác dụng ức chế sinh tổng hợp Prostaglandin (PG) do ức chế men cyclo-oxygenase (COX) làm giảm tổng hợp PG.
Lần cập nhật cuối lúc Thứ sáu, 22 Tháng 1 2016 08:40
Ds CK2 Nguyễn Văn Ngọc
Statin là nhóm thuốc được chỉ định sử dụng phối hợp với chế độ ăn uống và tập thể dục để làm giảm nồng độ cholesterol xấu trong máu. Trên thị trường, có các chế phẩm statin được sản xuất dưới dạng các sản phẩm có thành phần duy nhất hoặc những sản phẩm kết hợp. Dù là thuốc được sử dụng rộng rãi để làm hạ mỡ máu, tuy nhiên, thuốc cũng có một số tác dụng phụ cần phải đề phòng.
Tổn thương cơ
Simvastatin là một thuốc hạ mỡ máu thuộc nhóm ức chế men 3-Hydroxy-3-methylglutaryl-coenzyme A reductase. Do có tác dụng tốt trên cả cholesterol và triglyceride nên statin là nhóm thuốc hạ mỡ máu được sử dụng rộng rãi. Mặc dù thuốc có độ an toàn khá cao so với các thuốc hạ mỡ máu khác, nhưng nhóm statin cũng có thể gây ra khá nhiều tác dụng phụ cho người sử dụng, trong đó, tổn thương cơ là một trong những vấn đề thường gặp nhất, xảy ra ở 1-5% số người dùng thuốc và chiếm 25% tổng số các tác dụng phụ liên quan đến statin.
Lần cập nhật cuối lúc Thứ sáu, 22 Tháng 1 2016 08:37