• Phone: 0235.3851.429
  • Hotline: 19009095
  • Thông tin:

dieuhanhtructuyen

Tập san Y học

Điều trị ung thư trong khi mang thai

  • PDF.

Bs Phạm Ngọc Na - Khoa Ung bướu

mangthaik

Xem tại đây

Lần cập nhật cuối lúc Thứ hai, 12 Tháng 8 2019 11:27

Tim mạch can thiệp cùng đồng hành cấp cứu nhồi máu não cấp

  • PDF.

Bs CK2 Trần Lâm - Khoa Nội TM

nmn1

Xem tiếp tại đây

Lần cập nhật cuối lúc Chủ nhật, 11 Tháng 8 2019 09:08

Kích thích tính mềm dẻo và phục hồi chức năng sau đột quỵ - Vai trò của liệu pháp tế bào

  • PDF.

Bs Nguyễn Lương Thảo - Khoa Nội TM

Đột quỵ là 1 nguyên nhân quan trọng gây tử vong và tàn tật trên thế giới. Có 2 phương pháp điều trị đột quỵ. Phương pháp bảo vệ thần kinh tập trung làm giảm kích thước tổn thương và phương pháp phục hồi thần kinh, được phát triển để thúc đẩy sự phục hồi thần kinh thông qua việc điều trị toàn bộ hệ thần kinh trung ương.

Trong nhiều thập kỉ, mục tiêu hàng đầu của liệu pháp điều trị đột quỵ và chấn thương thần kinh là các biện pháp điều trị phần nhu mô tổn thương, với các can thiệp được thiết kế để giảm thể tích ổ nhồi máu. Rất nhiều cố gắng đã được thực hiện để phát triển các thuốc bảo vệ thần kinh, bao gồm các chất bẫy gốc tự do, chất đối kháng glutamate và nhiều thuốc khác. Các thuốc bảo vệ thần kinh phát triển trong phòng thí nghiệm được ứng dụng vào lâm sàng nhưng tất cả đã thất bại. Lý do của sự thất bại có nhiều mặt và phần nào có thể do các quy trình điều trị không thích hợp và thường không thực tế; liều dùng và thời điểm dùng thuốc được ứng dụng 1 cách “hồn nhiên” từ các thử nghiệm lâm sàng vào trong lâm sàng. Một loại thuốc duy nhất đã được phát triển và hiện nay đang được dùng trong lâm sàng để điều trị đột quỵ là chất hoạt hóa plasminogen tổ chức tổng hợp (rtPA), được dùng để tiêu sợi huyết. Tuy nhiên, rtPA không phải là chất bảo vệ thần kinh mà chỉ là chất cải thiện sự tưới máu cho nhu mô não thông qua phân hủy cục huyết khối. Tuy vậy, cửa sổ điều trị dành cho rtPA chỉ là 3 giờ, cho đến gần đây là 4,5 giờ. Hiện nay, ở Mỹ, ít hơn 5% bệnh nhân được dùng rtPA, với lý do hàng đầu là cửa sổ điều trị ngắn. Hơn nữa, rtPA có tác dụng phụ rất nặng là làm tăng tỷ lệ chuyển dạng chảy máu, rtPA không sử dụng được cho chảy máu não. Do vậy, nhu cầu bức thiết đối với sự phát triển các loại thuốc điều trị có thể dùng sau những giờ đầu bị đột quỵ và có thể dùng đều trị cho tất cả các bệnh nhân đột quỵ. Để làm được điều này cần 1 phương pháp chuyển từ các thuốc bảo vệ thần kinh tác dụng đối với đột quỵ, tức là điều trị tổn thương nhồi máu, sang phương pháp sử dụng các thuốc phục hồi thần kinh. Phương pháp này tác động vào nhu mô não lành hoặc tổn thương để thúc đẩy tính mềm dẻo của não và do vậy làm tái cấu trúc não nhằm bù đắp cho các nhu mô đã bị tổn thương, nhờ đó sẽ cải thiện sự tiến triển của chức năng.

dotquyy

Đọc thêm...

Lần cập nhật cuối lúc Thứ năm, 08 Tháng 8 2019 17:49

Ung thư tuyến giáp (phần 2)

  • PDF.

Bs Lê Trung Nghĩa - Khoa Ung Bướu

Lâm sàng.

Thường là một khối u không có triệu chứng ở tuyến giáp

Nếu bệnh tiến triển:

  • Đau
  • Khàn tiếng (xâm lấn thanh quản)
  • tắc nghẽn thực quản hoặc khí quản( nuốt khó hoặc khó thở )
  • sờ thấy hạch cổ cùng bên.

Nếu nhanh chóng mở rộng, nghi ngờ ung thư tuyến giáp không biệt hóa hoặc ung thư hạch.

Hiếm khi xuất hiện dưới dạng di căn vào xương hoặc phổi, và khi sinh thiết chẩn đoán khối di căn mới phát hiện.

kkgiap

Xem tiếp tại đây

Lần cập nhật cuối lúc Thứ tư, 07 Tháng 8 2019 17:55

Giá trị lâm sàng của các chất chỉ điểm u trong ung thư phổi

  • PDF.

Người dịch: BS TRẦN QUỐC CHIẾN - Khoa ung bướu

Nguồn: Clinical value of tumor markers 

Current status and future prospect III

Rafael Molina, Xavier Filella, J.M.Auge, J.M. Escudero

Ung thư phổi chiếm khoảng 21% các khối u ác tính ở nam giới và 29% số trường hợp tử vong do ung thư ở cộng đồng Châu Âu. Thời gian sống thêm 5 năm chỉ 13%. Tỷ lệ tử vong cao này có liên quan đến 3 yếu tố, thứ nhất là chẩn đoán trễ, thứ hai là loại mô học và thứ ba là độ tuổi và tình trạng chức năng của bệnh nhân, mà yếu tố này thường cản trở việc cắt bỏ triệt căn. Có hai loại mô học khác nhau của ung thư phổi, được phân loại thành hai phân nhóm chính, ung thư biểu mô tế bào nhỏ và ung thư biểu mô không phải tế bào nhỏ. Ung thư phổi tế bào nhỏ chiếm khoảng 20-25% các khối u phổi và là loại u phát triển nhanh với sự lan tràn đến các hạch vùng hoặc các hạch xa tại thời điểm chẩn đoán, nhưng rất nhạy với hóa trị và xạ trị. Ung thư phổi không phải tế bào nhỏ được tạo thành bởi ba loại mô học chính, ung thư biểu mô tuyến, ung thư biểu mô vảy và ung thư biểu mô không biệt hóa tế bào lớn mà với loại này phẫu thuật là một phương pháp điều trị được lựa chọn. Xạ trị là phương pháp điều trị giảm nhẹ chủ yếu và vai trò của hóa trị trong các trường hợp ung thư phổi không phải tế bào nhỏ tiến xa vẫn còn tranh luận. Các nghiên cứu gần đây cho thấy sự đáp ứng tốt hơn với hóa trị trong ung thư biểu mô tuyến, vì vậy điều quan trọng đáng cân nhắc là phân biệt chúng với các ung thư phổi không phải tế bào nhỏ khác. Ung thư biểu mô tuyến là loại mô học thường gặp nhất ở phụ nữ và những người không hút thuốc lá và ung thư biểu mô vảy thì thường gặp nhất ở những người hút thuốc lá.

giatriu3

Đọc thêm...

Lần cập nhật cuối lúc Thứ hai, 05 Tháng 8 2019 18:22

You are here Đào tạo Tập san Y học