• Phone: 0235.3851.429
  • Hotline: 19009095
  • Thông tin:

dieuhanhtructuyen

Đào tạo nhân viên BV

Kháng sinh trong nhiễm trùng sản phụ khoa và vấn đề kháng thuốc

  • PDF.

Bs Huỳnh Công - 

Nhiễm trùng sản phụ khoa là một thách thức lớn trong y học hiện đại, không chỉ gây ra bệnh suất và tử suất đáng kể ở phụ nữ mà còn đặt ra gánh nặng lớn cho hệ thống y tế. Trong bối cảnh tình hình kháng kháng sinh ngày càng trầm trọng, việc hiểu rõ về nguyên nhân, tác nhân gây bệnh, đặc biệt là các chủng vi khuẩn kháng thuốc, cùng với các chiến lược điều trị và dự phòng hiệu quả trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Theo báo cáo của WHO, 7% phụ nữ mắc nhiễm trùng hậu sản, trong đó tỷ lệ tại châu Á là 11%.

I. Nguyên nhân

Nhiễm trùng sản phụ khoa bao gồm các tình trạng viêm nhiễm ở đường sinh dục dưới (âm đạo, cổ tử cung) và đường sinh dục trên (tử cung, vòi trứng, buồng trứng), cũng như các nhiễm trùng liên quan đến quá trình thai sản và phẫu thuật.

Nguyên nhân gây bệnh thường xuất phát từ:

  • Vi khuẩn từ hệ vi sinh vật bình thường: Nhiều vi khuẩn thường trú ở âm đạo, đường ruột (như Streptococcus agalactiae – GBS, Escherichia coli, Bacteroides spp., Enterococcus faecalis) có thể trở thành tác nhân gây bệnh khi có điều kiện thuận lợi.
  • Vi khuẩn lây truyền qua đường tình dục (STIs): Các tác nhân như Chlamydia trachomatis, Neisseria gonorrhoeae, Mycoplasma genitalium có thể gây ra các nhiễm trùng nặng ở đường sinh dục trên.
  • Vi khuẩn từ môi trường bệnh viện: Đặc biệt trong nhiễm trùng vết mổ hoặc nhiễm trùng hậu sản, các chủng vi khuẩn bệnh viện như Staphylococcus aureus (bao gồm MRSA) hoặc Pseudomonas aeruginosa là những mối lo ngại.

kssan

Xem tiếp tại đây

Lần cập nhật cuối lúc Thứ ba, 15 Tháng 7 2025 08:55

Cập nhật xử trí cai rượu

  • PDF.

BS. Huỳnh Minh Nhật - 

GIỚI THIỆU

Rượu gây ra nhiều vấn đề sức khỏe bao gồm rối loạn sử dụng rượu và cai rượu. Những người phụ thuộc vào rượu có thể trải qua các dấu hiệu và triệu chứng của việc cai rượu khi ngừng hoặc giảm sử dụng rượu, do sự đảo ngược đột ngột tác động ức chế lên chức năng não.

Cai rượu thường khởi phát 6-24 giờ sau lần uống cuối cùng và có thể xảy ra trước khi nồng độ cồn trong máu đạt mức 0. Thông thường, cai rượu diễn ra ngắn và tự khỏi sau 2-3 ngày nhưng có thể kéo dài đến 10-14 ngày.

Các biểu hiện cai rượu được chia thành 3 nhóm chính:

  • Thay đổi thần kinh tự chủ: đổ mồ hôi, sốt, tăng huyết áp, nhịp tim nhanh, run tay
  • Rối loạn tiêu hóa: chán ăn, buồn nôn, nôn, khó tiêu
  • Biến đổi hệ thần kinh trung ương: lo âu, mất ngủ, co giật, ảo giác, hoang tưởng, mê sảng

Co giật xảy ra ở khoảng 5% số người cai rượu, khoảng 6-24 giờ sau lần uống cuối cùng, vì vậy thường xảy ra trước khi nhập viện. Co giật thuộc loại co giật toàn thân và khoảng 75% trường hợp chỉ có một lần co giật.

Mục tiêu chính của việc xử trí cai rượu là giảm thiểu rủi ro vật lý, chấn thương tâm lý và tử vong liên quan đến cai rượu cũng như giảm bớt sự khó chịu cho bệnh nhân. Quá trình này giúp bệnh nhân hoàn thành việc cai rượu an toàn và tạo điều kiện cho việc tham gia điều trị lâu dài hơn để giảm tác hại của rượu.

Cai rượu không phải là một phương pháp điều trị độc lập mà là một phần của hành trình điều trị tổng thể rối loạn sử dụng rượu. Lập kế hoạch điều trị sau cai nghiện nên bắt đầu vào thời điểm bắt đầu một đợt cai rượu được hỗ trợ.

cai

Xem tiếp tại đây

Lần cập nhật cuối lúc Thứ năm, 10 Tháng 7 2025 09:08

Quản lý các tình trạng tiền ung thư biểu mô và tổn thương tân sinh sớm ở dạ dày (MAPS III): Cập nhật hướng dẫn năm 2025 của Hội Nội soi Tiêu hóa Châu Âu (ESGE), Nhóm Nghiên cứu Helicobacter và Vi sinh Châu Âu (EHMSG) và Hội Giải phẫu bệnh Châu Âu (ESP)"

  • PDF.

Bs Bùi Thị Bích Liễu - 

I. Sàng lọc ung thư dạ dày và các tổn thương tiền ung thư (Khuyến cáo 1–7)

1. Khuyến cáo 1: ESGE/EHMSG/ESP gợi ý rằng việc nội soi dạ dày sàng lọc theo quy mô dân số nhằm phát hiện ung thư dạ dày và các tổn thương tiền ung thư nên được thực hiện:

  • Mỗi 2 đến 3 năm ở các khu vực có nguy cơ cao, tức là nơi có tỷ lệ mắc chuẩn hóa theo tuổi (ASR) > 20/100.000 người/năm hoặc
  • Mỗi 5 năm ở các khu vực nguy cơ trung bình (ASR từ 10 đến 20/100.000 người/năm) → nếu hiệu quả về chi phí đã được chứng minh và nguồn lực y tế cho phép.

→ Mức khuyến cáo: Có điều kiện / Chất lượng bằng chứng: Thấp

2. Khuyến cáo 2: ESGE/EHMSG/ESP gợi ý không thực hiện sàng lọc nội soi dạ dày theo quần thể tại các khu vực nguy cơ thấp (ASR < 10/100.000 người/năm).

  • Khu vực nguy cơ thấp thường là những nước hoặc vùng có tỷ lệ mắc ung thư dạ dày thấp một cách ổn định qua thời gian (thường là Bắc Mỹ, Bắc Âu, Úc...).
  • Việc không khuyến cáo sàng lọc đại trà ở vùng nguy cơ thấp là để tránh lạm dụng nguồn lực, chi phí y tế và nguy cơ can thiệp quá mức, trong khi lợi ích cộng đồng không rõ ràng.
  • Tuy nhiên, đây là khuyến cáo có điều kiện, nghĩa là có thể thay đổi tùy bối cảnh cụ thể hoặc nếu tương lai xuất hiện bằng chứng mới.
  • Điều này không loại trừ khả năng sàng lọc có chọn lọc theo nguy cơ cá nhân, ví dụ: người có tiền sử gia đình, nhiễm H. pylori kéo dài...

→ Mức khuyến cáo: Có điều kiện / Thấp

cancers

Xem tiếp tại đây

Lần cập nhật cuối lúc Thứ năm, 03 Tháng 7 2025 14:31

Theo dõi bệnh nhân suy hô hấp cấp trong quá trình hỗ trợ hô hấp không xâm lấn

  • PDF.

Bs Lê Văn Tuấn - 

Suy hô hấp cấp tính (ARF) được đặc trưng bởi tình trạng giảm oxy máu, có thể đi kèm với tình trạng giảm thông khí, tăng CO2 máu hoặc suy hô hấp cấp tính giảm oxy máu (AHRF) đơn độc. Tình trạng này dẫn đến tình trạng không cung cấp đủ oxy cho các cơ quan và loại bỏ CO2, dẫn đến mất cân bằng axit-bazơ. Mặc dù đôi khi oxy bổ sung có thể làm giảm các vấn đề này, nhưng có thể cần hỗ trợ hô hấp nâng cao cho những bệnh nhân có nhu cầu thở máy cao hơn.

Hỗ trợ hô hấp không xâm lấn (NRS) có thể giúp kiểm soát ARF bằng cách đáp ứng nhu cầu của bệnh nhân mà không cần thở máy xâm lấn (IMV), có khả năng tránh được việc đặt nội khí quản. Tuy nhiên, việc trì hoãn IMV ở những bệnh nhân nguy kịch có thể làm tình trạng của họ trở nên tồi tệ hơn do tăng nỗ lực hô hấp và tiêu thụ oxy. 

NRS bao gồm Oxy mũi lưu lượng cao (HFNO), Áp lực đường thở dương liên tục (CPAP) và Thông khí không xâm lấn (NIV). Thất bại NRS được định nghĩa về mặt dịch tễ học là nhu cầu đặt nội khí quản.

Mối liên hệ giữa việc trì hoãn đặt nội khí quản sau khi NRS thất bại và kết quả lâm sàng tệ hơn vẫn chưa được hiểu rõ. Ba con đường có thể giải thích mối liên hệ này: (1) gây hại trực tiếp đến phổi và các cơ hô hấp do nỗ lực thở quá mức (ví dụ, bệnh nhân tự gây tổn thương phổi - P-SILI - và chấn thương cơ), (2) tiến triển của bệnh tiềm ẩn do không đủ tải cho các cơ hô hấp và cung cấp oxy thấp, và (3) các biến chứng từ việc đặt nội khí quản và IMV, chẳng hạn như an thần, bất động, teo cơ hoành và tổn thương phổi do máy thở. 

hohap

Đọc thêm...

Lần cập nhật cuối lúc Thứ hai, 30 Tháng 6 2025 18:46

Gây mê bệnh nhân tiền sản giật (phần 2)

  • PDF.

Bs Hồ Kiến Phát - 

I. Kiểm soát sản giật

Magnesium sulphate được chứng minh có lợi ích ngăn cản co giật với sản phụ TSG có dấu hiệu nặng.

Maginesium sulphate là lựa chọn đầu tay nếu sản giật xảy ra.

Liều tấn công: magnesium sulphate 15% 4g (5g dân số Nam Phi) pha loãng 20ml dung dịch glucose 5% tiêm tĩnh mạch chậm trên 5 phút (nếu không có đường truyền, có thể tiêm bắp 5g mỗi bên mông, pha với 1m lidocaine 2%)

Liều duy trì: Truyền tĩnh mạch magnesium sulphate 15% 1g trong một giờ hoặc tiêm bắp 5g mỗi 4 giờ. Có thể lặp lại liều tấn công 2-4g khi xảy ra co giật trong lúc đang truyền liều duy trì

gaymeTSG

Xem tại đây

Lần cập nhật cuối lúc Thứ hai, 30 Tháng 6 2025 16:16

You are here Tin tức Đào tạo nhân viên BV