• Phone: 0235.3851.429
  • Hotline: 19009095
  • Thông tin:

dieuhanhtructuyen

Đào tạo nhân viên BV

Suy giáp cận lâm sàng ở người lớn

  • PDF.

Bs Phan Đỗ Minh Quân - 

I. DỊCH TỄ HỌC

Trong các nghiên cứu dựa trên dân số, tỷ lệ mắc bệnh suy giáp dưới lâm sàng dao động từ 4 đến 15 phần trăm. Trong Khảo sát Sức khỏe và Kiểm tra Quốc gia Hoa Kỳ lần thứ ba (NHANES III), loại trừ những đối tượng mắc bệnh tuyến giáp đã biết, 4,3 phần trăm trong số 16.533 người mắc bệnh suy giáp dưới lâm sàng. Tỷ lệ mắc bệnh tăng theo tuổi, cao hơn ở phụ nữ so với nam giới và thấp hơn ở người da đen so với người da trắng. Tuy nhiên, tỷ lệ mắc bệnh được xác định bởi giới hạn trên của mức bình thường đối với TSH huyết thanh. Nếu giới hạn trên của mức bình thường tăng theo tuổi, như trường hợp này, thì tỷ lệ mắc bệnh có thể không cao như trước đây người ta vẫn nghĩ. Trong một nghiên cứu về những người trên 70 tuổi, tỷ lệ mắc bệnh được chẩn đoán mắc bệnh suy giáp dưới lâm sàng đã giảm từ 29,6 xuống 3 phần trăm nếu sử dụng phạm vi tham chiếu bình thường theo độ tuổi thay vì thống nhất.

Ở Châu Âu, nơi lượng iốt hấp thụ thay đổi, tình trạng suy giáp dưới lâm sàng phổ biến hơn ở những khu vực đủ iốt. Trong một nghiên cứu, tỷ lệ suy giáp dưới lâm sàng dao động từ 4,2 phần trăm ở những khu vực thiếu iốt đến 23,9 phần trăm ở khu vực có lượng iốt hấp thụ dồi dào, mặc dù tỷ lệ bệnh nhân có nồng độ kháng thể anti-TPO (anti-TPO) trong huyết thanh cao cũng tương tự.

Đọc thêm...

Giải phẫu gan và các biến thể - ứng dụng trong phẫu thuật

  • PDF.

Bs. Trần Phúc Huy - Khoa Ngoại Tiêu hóa

Kiến thức về giải phẫu gan đóng vai trò quan trọng trong thực hành lâm sàng, không chỉ đối với các phẫu thuật viên chuyên ngành gan mật tụy mà còn hữu ích với tất cả các bác sĩ can thiệp nội mạch và các bác sĩ hình ảnh học. Trong những năm gần đây, phẫu thuật và các phương pháp can thiệp nội mạch điều trị các bệnh lý gan mật đã đạt được nhiều tiến bộ đáng kể, đặc biệt là phẫu thuật cắt gan qua nội soi và ghép gan. Các kỹ thuật này đòi hỏi sự am hiểu cũng như kiến thức vững vàng về giải phẫu và các biến thể nhằm hạn chế tối đa các nguy cơ, tai biến, biến chứng trong và sau phẫu thuật.

A.GIẢI PHẪU VÀ PHÂN CHIA GAN

1.Sơ lược giải phẫu gan

Gan là tạng to nhất của cơ thể nằm trong ổ bụng, nằm ở tầng trên mạc treo đại tràng ngang, chiếm gần toàn bộ vùng hạ sườn phải, một phần vùng thượng vị và lấn sang vùng hạ sườn trái. Gan là tạng nặng nhất cơ thể: lúc chết nặng trung bình 1500 gram, khi sống chứa thêm 800 - 900g máu, tổng cộng nặng khoảng 2300 – 2400g. Gan nam giới thường nặng hơn nữ giới. Trọng lượng và kích thước thay đổi theo tình trạng sinh lý và bệnh lý.

Gan có hai mặt: mặt hoành và mặt tạng, và một bờ gọi là bờ dưới nơi có hai chỗ khuyết là khuyết túi mật và khuyết dây chằng tròn. Hình thể trong: gan được cấu tạo bởi 3 thành phần chính: bao gan, nhu mô gan, các mạch máu và đường mật trong gan. Trong đó, bao gan gồm hai lớp áo thanh mạc và áo xơ. Lớp áo xơ tới cửa gan thì chui theo các bó mạch mật thần kinh từ cuống gan vào trong gan, tạo thành một bao xơ quanh mạch gọi là bao Glisson.

gan1

Xem tại đây

Tồn tại tĩnh mạch chủ trên bên trái trên siêu âm tim thai nhi

  • PDF.

Bs Nguyễn Thế Tuấn - 

Đại cương

Tồn tại tĩnh mạch chủ trên bên trái (Persistent Left Superior Vena Cava​ : PLSVC)) là dạng phổ biến nhất của tình trạng bất thường hồi lưu tĩnh mạch toàn thân do suy thoái tĩnh mạch trước bên trái và tĩnh mạch chính chung trong tử cung. Tỷ lệ mắc bệnh ước tính là 0,3-0,5% dân số nói chung và 4-9% bệnh nhân mắc bệnh tim bẩm sinh

Sinh bệnh học

Trong giai đoạn phôi thai sớm, các tĩnh mạch chủ trước bên phải và bên trái tạo nên hệ thống dẫn lưu tĩnh mạch chính của phần đầu, nhưng sự phát triển của tĩnh mạch vô danh bên trái vào tuần thứ 7 của thai kỳ và sự thoái triển của phần gần của tĩnh mạch chủ trái gây ra kiểu dẫn lưu tĩnh mạch chủ trên bên phải thông thường, trong khi tĩnh mạch chủ trái trở thành dây chằng Marshall.

PLSVC là kết quả của sự thất bại trong quá trình thoái triển của các tĩnh mạch chủ trước bên trái và tĩnh mạch chủ chung

PLSVC bắt đầu tại chỗ nối của tĩnh mạch cảnh trái và tĩnh mạch dưới đòn, chạy trước cung động mạch chủ và động mạch phổi trái và trên bờ bên của tâm nhĩ trái; nó nối với xoang vành ở rãnh nhĩ thất trái sau và đổ vào tâm nhĩ phải trong 92% trường hợp hoặc vào tâm nhĩ trái trong các trường hợp còn lại khi xoang vành bị hở một phần hoặc toàn bộ. Đôi khi SVC phải không có và tĩnh mạch hồi lưu từ phần trên cơ thể đi vào xoang vành đến tâm nhĩ phải.

Trong phần lớn các trường hợp, PLSVC không có ý nghĩa lâm sàng và không có thay đổi huyết động vì máu tĩnh mạch tiếp tục trở về tâm nhĩ phải

tmctt

Xem tiếp tại đây

Áp xe gan

  • PDF.

BS Nguyễn Hồng Ga - Khoa CĐHA

Tổng quan

Áp xe gan, giống như áp xe ở những nơi khác, là tập trung khu trú của mô viêm hoại tử do các tác nhân là vi khuẩn, ký sinh trùng hoặc nấm. Thông thường, quá trình hình thành áp xe gan bắt đầu khi có sự rò rỉ từ ruột trong khoang bụng, sau đó các tác nhân gây nhiễm trùng (như vi khuẩn) sẽ di chuyển đến gan thông qua tĩnh mạch cửa. Ngoài ra, nhiều trường hợp áp xe gan cũng xuất phát từ tình trạng nhiễm trùng đường mật (viêm đường mật) gây ra áp xe thông qua sự tiếp xúc trực tiếp.

Áp xe gan có thể được phân loại theo nhiều cách. Có thể theo vị trí trong gan: hơn 50% trường hợp là áp xe đơn độc ở thùy gan phải vì nó chiếm phần lớn của gan và có hệ thống mạch máu phong phú hơn (đặc biệt từ tĩnh mạch cửa); ở thùy gan trái và thùy đuôi thì ít hơn. Hoặc có thể phân loại theo nguyên nhân: phổ biến nhất là áp xe gan do vi khuẩn, trong đó thường gặp nhất là E.Coli, Klebsiella sp, Streptococcus, Staphylococcus, ngoài ra còn áp xe do ký sinh trùng (chủ yếu là Amip), nấm.

apxegan

Xem tiếp tại đây

Tổng quan về hội chứng rối loạn tuần hoàn não sau có hồi phục

  • PDF.

BS Huỳnh Công - 

I. Giới thiệu

Hội chứng rối loạn tuần hoàn não sau có hồi phục (Posterior Reversible Encephalopathy Syndrome – PRES) được mô tả lần đầu bởi Hinchey và cộng sự vào năm 1996 với những triệu chứng đau đầu, rối loạn tri giác, mờ mắt và co giật. Tình trạng này thường gặp trên những bệnh nhân bị sản giật hoặc đang điều trị thuốc ức chế miễn dịch với huyết áp tăng cấp tính, hay nói cách khác là trên những bệnh nhân có cả bệnh lý tự miễn và tăng huyết áp. Mặc dù phần lớn các trường hợp là hồi phục hoàn toàn, nhưng do hiếm gặp và triệu chứng lâm sàng đa dạng khiến cho việc chẩn đoán trở nên khó khăn. Thai phụ, đặc biệt những người mắc tiền sản giật hoặc sản giật, có nguy cơ cao phát triển PRES do thay đổi huyết động và rối loạn chức năng nội mô.

II. Sinh bệnh học

Trước kia, hội chứng rối loạn tuần hoàn não sau có hồi phục còn được biết đến là bệnh não do tăng tưới máu hay hội chứng rò rỉ mao mạch não hay hội chứng não chất trắng ở vùng não sau có hồi phục, tuy nhiên tổn thương trên MRI não có thể hiện diện ở cả vùng chất trắng và chất xám. Hiện tại sinh bệnh học chính xác của PRES vẫn chưa được xác định, nhưng có hai giả thuyết được chấp nhận.

2.1. Giả thuyết tăng tưới máu

Giả thuyết này được đặt ra do sự hiện diện khá phổ biến của hình ảnh phù não trên cộng hưởng từ (MRI) và chụp cắt lớp vi tính phát xạ đơn photon (SPECT) trong PRES. Cơ chế được cho là do sự gia tăng đột ngột áp lực mạch máu vượt quá khả năng tự điều hòa của tuần hoàn não, dẫn đến sự phá vỡ hàng rào mạch máu não và phù mạch. Ở người, giới hạn trên và dưới của huyết áp trung bình vượt quá sự tự điều hòa mạch não là 150-160 mmHg và 40-60 mmHg, nhưng giá trị ngưỡng trên có thể thay đổi trên những bệnh nhân tăng huyết áp mạn tính. Hiện tượng phù thường xảy ra ở thùy thái dương chẩm nhưng cũng có thể xảy ra ở bất kỳ phần nào của não và hệ thần kinh trung ương. Tuy nhiên, mức độ phù não trong PRES cũng không tương quan với độ nặng của tăng huyết áp.

roiloannao

Đọc thêm...

Lần cập nhật cuối lúc Thứ tư, 18 Tháng 6 2025 10:41

You are here Tin tức Đào tạo nhân viên BV