Bs Lê Thị Hậu -
Việc sử dụng các thuốc ức chế kênh đồng vận chuyển natri-glucose (SGLT2i) đã làm giảm nhu cầu sử dụng liệu pháp hạ urat và liệu pháp điều trị cơn gút ở những người mắc cả bệnh tiểu đường type 2 và gút, theo nghiên cứu mới đây đã phát hiện.
Gút là bệnh viêm khớp phổ biến với tỷ lệ mắc và tỷ lệ tử vong do gút đã tăng trên toàn thế giới trong nhiều thập kỷ. Mặc dù có một số phác đồ điều trị hiệu quả, nhiều bệnh nhân mắc bệnh gút vẫn tiếp tục bị các cơn gút tái phát, gây ra cơn đau dữ dội và bệnh tật, và ảnh hưởng đáng kể đến các hoạt động trong cuộc sống hàng ngày. Gút cũng mang gánh nặng bệnh đi kèm đáng kể với các tình trạng tim mạch-chuyển hóa. Hơn nữa, một số nghiên cứu đã báo cáo rằng bệnh gút làm tăng nguy cơ tử vong do bệnh thận và tim mạch, và khoảng cách tử vong giữa bệnh nhân mắc bệnh gút và dân số nói chung vẫn chưa được cải thiện.
Thuốc SGLT2i dùng để điều trị đái tháo đường type 2, làm giảm các biến cố tim mạch bất lợi chính và tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân ở những người mắc hoặc không mắc bệnh tiểu đường. Các nghiên cứu cũng phát hiện ra rằng SGLT2i làm giảm nồng độ urat trong huyết thanh và giảm nguy cơ mắc bệnh gút mới mắc. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có nghiên cứu nào xem xét cụ thể mối liên quan của SGLT2i với nguy cơ bùng phát bệnh gút tái phát và tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân ở những bệnh nhân mắc bệnh gút. Nghiên cứu gần đây ở Anh (1) theo dõi dựa trên dân số để so sánh nguy cơ tái phát các đợt bùng phát bệnh gút và tử vong do mọi nguyên nhân giữa những bệnh nhân bắt đầu điều trị bằng SGLT2i và những bệnh nhân bắt đầu dùng 2 loại thuốc chống đái tháo đường khác (thuốc chủ vận thụ thể peptide-1 giống glucagon [GLP-1 RA] hoặc thuốc ức chế dipeptidyl peptidase-4 [DPP-4i]) ở những bệnh nhân mắc bệnh gút và đái tháo đường týp 2.
Trong nghiên cứu nhóm bệnh nhân bị bệnh gút và đái tháo đường type 2, việc bắt đầu điều trị bằng SGLT2i có liên quan đến việc giảm nguy cơ tái phát các đợt bùng phát bệnh gút so với việc bắt đầu điều trị bằng DPP-4i hoặc GLP-1 RA. Hơn nữa, những người khởi đầu bằng SGLT2i có tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân thấp hơn những người khởi đầu bằng DPP-4i. Những phát hiện này cho thấy rằng SGLT2i có thể có tiềm năng làm giảm gánh nặng của các đợt bùng phát bệnh gút tái phát và có khả năng thu hẹp khoảng cách tử vong giữa những bệnh nhân bị bệnh gút và dân số nói chung. (1)
Các thử nghiệm cho thấy thuốc SGLT2i làm giảm nồng độ urat trong huyết thanh ở các thử nghiệm lâm sàng khoảng 35–45 μmol/L (~0,60–0,75 mg/dL) ở những người mắc đái tháo đường type 2 với các giá trị ban đầu trong phạm vi bình thường (~200–400 μmol/L; ~3,3–6,7 mg/dL) (2). Tác dụng hạ urat dường như mạnh hơn ở những người bị tăng acid uric máu và bệnh gút có triệu chứng, thường vượt quá 60 μmol/L (1,0 mg/dL) (3). Điều trị đái tháo đường type 2 bằng SGLT2i có liên quan đến tỷ lệ mắc bệnh gút thấp hơn khoảng 30% so với điều trị bằng thuốc DPP4i hoặc GLP-1 RA. Trong số những người mắc đái tháo đường type 2 và bệnh gút, tình trạng 'bùng phát' cơn gút giảm ở những người được điều trị bằng thuốc SGLT2i so với việc sử dụng thuốc DPP4i hoặc thuốc GLP-1 RA, lưu ý rằng nhiều bệnh nhân trong số này đã dùng metformin cùng với thuốc chống gút. Vì những lợi ích này không liên quan chặt chẽ đến tác dụng kiểm soát đường huyết hoặc cân nặng cơ thể, nên chúng được cho là ít nhất một phần là do tác dụng hạ urat của thuốc SGLT2i.
Cơ chế mà chất ức chế SGLT2 làm giảm urat huyết thanh vẫn chưa được xác định đầy đủ, nhưng một số nghiên cứu đã lưu ý rằng tác dụng của chất ức chế SGLT2 có tính cộng hợp với tác dụng hạ urat của việc điều trị bằng chất ức chế xanthine oxidase và các tác nhân uricosuric đã được xác định, cho thấy chất ức chế SGLT2 có cơ chế hoạt động riêng biệt. Thuốc SGLT2i ở ống thận gần làm tăng nồng độ glucose còn lại trong lòng ống. Glucose này có thể cạnh tranh với urat tại chất vận chuyển glucose/urat GLUT9b (SLC2A9), làm giảm tái hấp thu urat và làm tăng uric niệu. Thêm vào đó là tình trạng lợi tiểu thẩm thấu do glucose niệu tạo ra có thể làm tăng uric niệu.
Cuối cùng, thuốc SGLT2i ngoài đóng vai trò quan trọng, là nhân tố để kiểm soát đái tháo đường type 2, đặc biệt là ở những người thừa cân, chất ức chế SGLT2 gần đây đã mở rộng chỉ định của chúng để bao gồm suy tim và suy thận mạn cho những người có hoặc không có bệnh tiểu đường. Vì việc điều trị hạ urat huyết thanh bằng SGLT2i không phụ thuộc vào các phương pháp điều trị hiện có đối với tình trạng tăng axit uric máu và bổ sung cho các phương pháp điều trị như vậy, SGLT2i cung cấp một nguồn lực bổ sung để kiểm soát tình trạng tăng axit uric máu và bệnh gút có triệu chứng. Hơn nữa, cơ hội kiểm soát tốt hơn urat huyết thanh trong thời gian dài được dự đoán sẽ làm giảm thêm nguy cơ mắc bệnh tim mạch và bệnh thận liên quan đến tình trạng tăng axit uric máu. Ngoài ra, khả năng bảo vệ tim thận độc lập do chất ức chế SGLT2 cung cấp sẽ mang lại thêm lợi ích sức khỏe cho những người bị bệnh gút tăng axit uric máu.(4)
Tài liệu tham khảo
- Gout Flares and Mortality After Sodium-Glucose Cotransporter-2 Inhibitor Treatment for Gout and Type 2 Diabetes
- Effects of sodium-glucose co-transporter 2 (SGLT2) inhibitors on serum uric acid level: A meta-analysis of randomized controlled trials
- The clinical benefits of sodium-glucose cotransporter type 2 inhibitors in people with gout
- Diabetes and gout: another role for SGLT2 inhibitors?
- 23/01/2025 18:10 - Khuyến cáo sử dụng thuốc an toàn
- 30/12/2024 14:03 - Nguy cơ hít phải dịch dạ dày vào phổi khi sử dụng …
- 28/12/2024 08:41 - Khai thác tiền sử dùng thuốc
- 29/09/2024 07:54 - Liều lượng kháng sinh được đề xuất để điều trị các…
- 27/09/2024 10:08 - Thuốc Voquezna Triple Pak dùng trong điều trị vi k…
- 25/09/2024 16:57 - Thuốc ức chế men chuyển angiotensin và thuốc chẹn …