Bs Nguyễn Ngọc Võ Khoa-
Trong điều trị nhiễm Helicobacter pylori, các liệu pháp kết hợp sử dụng vonoprazan chẹn axit cạnh tranh kali đường uống ưu việt hơn so với liệu pháp bộ ba dựa trên chất ức chế bơm proton (PPI) tiêu chuẩn, tạo ra tỷ lệ tiệt trừ cao hơn, theo dữ liệu tổng hợp từ Hoa Kỳ và Châu Âu dựa trên 3 thử nghiệm ngẫu nhiên, có đối chứng.
Vonoprazan đã được đệ trình lên Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm để được phê duyệt với chỉ định Fast Track kết hợp với amoxicillin và clarithromycin (liệu pháp bộ ba) hoặc một mình amoxicillin (liệu pháp kép) để điều trị nhiễm H. pylori. Thuốc đã được phê duyệt ở Nhật Bản để điều trị loét dạ dày và tá tràng, viêm thực quản trào ngược, phòng ngừa thứ phát do aspirin liều thấp hoặc thuốc chống viêm không steroid gây tổn thương niêm mạc dạ dày, và diệt trừ H. pylori bậc một và bậc hai liệu pháp.
Chi tiết nghiên cứu:
Nghiên cứu bao gồm 1.046 bệnh nhân chưa điều trị nhưng bị khó tiêu, được chẩn đoán gần đây hoặc mới bị loét dạ dày tá tràng không chảy máu, tiền sử loét dạ dày tá tràng hoặc sử dụng NSAID ổn định lâu dài. Bệnh nhân được chọn ngẫu nhiên để điều trị bộ ba dựa trên PPI (lansoprazole, amoxicillin, clarithromycin), liệu pháp bộ ba vonoprazan (cộng với amoxicillin, clarithromycin), hoặc liệu pháp kép vonoprazan (amoxicillin). Thời gian điều trị là 14 ngày, tiếp theo là xét nghiệm hơi thở urê 13C (UBT) 4 tuần sau khi điều trị.
Các nhà nghiên cứu của ông đã tiến hành một số phân tích, bao gồm:
Phân tích ý định điều trị đã được sửa đổi, bao gồm tất cả những người đăng ký; mỗi phân tích theo phác đồ, bao gồm những bệnh nhân đã dùng ít nhất 75% mỗi loại thuốc nghiên cứu và trải qua UBT 13C trong khung thời gian dự kiến; và một quần thể an toàn của tất cả các bệnh nhân đã dùng ít nhất một loại thuốc nghiên cứu.
Trong số những bệnh nhân có chủng H. pylori không kháng với clarithromycin, nhóm điều trị ba liệu pháp dựa trên PPI có tỷ lệ tiệt trừ là 78,8%, so với 84,7% ở nhóm điều trị ba liệu pháp vonoprazan (P <.0001) và 78,5 % trong nhóm điều trị kép vonoprazan (P = 0,0037). Trong phân tích trên mỗi phác đồ, liệu pháp bộ ba dựa trên PPI đã diệt trừ được 82,1% H. pylori, so với 90,4% ở nhóm liệu pháp ba lần vonoprazan (P <.0001) và 81,2% ở nhóm liệu pháp kép vonoprazan (P = 0,0077). Cả hai nhóm điều trị bằng vonoprazan đều không thua kém liệu pháp bộ ba dựa trên PPI.
Một phân tích thăm dò xác định trước cho thấy rằng liệu pháp bộ ba vonoprazan tốt hơn liệu pháp bộ ba dựa trên PPI trong nhóm dân số có ý định điều trị đã được sửa đổi (P = 0,408) và dân số theo phác đồ (P = 0,0059).
Trong số những bệnh nhân có các chủng H. pylori kháng clarithromycin, trong quần thể có ý định điều trị đã được sửa đổi, 31,9% đạt được loại trừ với liệu pháp ba PPI, so với 65,8% ở nhóm điều trị ba lần vonoprazan và 69,6% ở nhóm điều trị kép vonoprazan. -nhóm trị liệu. Trong dân số theo phác đồ, con số lần lượt là 29,0% so với 67,2% và 79,5% (P <.0001 cho cả liệu pháp ba lần so với PPI).
Trong số tất cả các bệnh nhân, trong quần thể có ý định điều trị đã được sửa đổi, 68,5% đạt được sự loại trừ với liệu pháp ba PPI, 80,8% với liệu pháp ba vonoprazan (P =. 0001) và 77,2% với liệu pháp kép vonoprazan (P = 0,0063) * . Trong dân số mỗi giao thức, các con số lần lượt là 70,0%, 85,7% (P <.0001) và 81,1% (P = 0,0013).
Kết quả an toàn tương tự nhau giữa ba nhóm, với các tác dụng ngoại ý cấp cứu khi điều trị xảy ra ở 34,5% nhóm điều trị ba PPI (1,2% ngừng điều trị), 34,1% nhóm điều trị ba lần vonoprazan (2,3% ngừng điều trị) và 29,9% trong nhóm điều trị kép vonoprazan (0,9% đã ngưng).
Ý tưởng:
William Chey, MD, giáo sư y khoa và giám đốc phòng thí nghiệm sinh lý GI tại Michigan Medicine cho biết: Hiệu quả của liệu pháp ba thuốc dựa trên clarithromycin dựa trên PPI đã giảm xuống dưới 80% ở Hoa Kỳ và Châu Âu trong vài thập kỷ qua, phần lớn là do tình trạng kháng thuốc kháng sinh.
Theo Chey, Vonoprazan bền trong axit hơn PPI, và tạo ra khả năng khử axit lớn hơn và bền hơn. Điều đó quan trọng vì hai lý do: Một là một số kháng sinh không bền với axit, và do đó, hiệu quả của chúng có thể bị ảnh hưởng trực tiếp trong môi trường axit hơn. Yếu tố khác là hầu hết các loại thuốc kháng sinh đều hoạt động tốt hơn trên vi khuẩn đang nhân lên tích cực và H. pylori sinh sản tốt hơn trong môi trường trung tính hơn. Chey nói trong một cuộc phỏng vấn: "Vì vậy, bạn tăng khả năng sao chép, bạn sẽ tăng khả dụng sinh học của thuốc kháng sinh. Và do đó, hy vọng rằng đó là lý do tại sao chúng tôi thấy nó hoạt động tốt hơn ở những bệnh nhân kháng [thuốc kháng sinh]".
Vẫn còn phải xem liệu loại thuốc này có nhận được sự chấp thuận của FDA hay không, nhưng ông đã chỉ ra các phác đồ khác như liệu pháp bốn thuốc bismuth và liệu pháp ba thuốc dựa trên rifabutin đã có sẵn. Chey nói: "Nếu tôi được lựa chọn, tôi sẽ không bao giờ sử dụng liệu pháp bộ ba dựa trên PPI nữa. Mọi người không nên làm như vậy".
Kimberly Harer, MD, người điều hành phiên họp cho biết: “Các phác đồ tiệt trừ H. pylori thành công hơn chắc chắn là cần thiết, và những kết quả này đặc biệt phù hợp và thú vị do sự thất bại ngày càng tăng của các phác đồ điều trị ban đầu”. Bà lưu ý rằng phân tích thứ cấp về những bệnh nhân bị nhiễm trùng kháng clarithromycin có liên quan đặc biệt. Harer, giảng viên lâm sàng tại Đại học Michigan Health, Ann Arbor, cho biết: “Phân tích tính ưu việt cho thấy liệu pháp ba vonoprazan làm tăng khả năng diệt H. pylori so với liệu pháp ba lanzoprazole.
Một nhược điểm của nghiên cứu là nó không so sánh sự kết hợp vonoprazan với liệu pháp bốn phương pháp PPI, bismuth, tetracycline và nitroimidazole, MD, Joseph Jennings, người được yêu cầu bình luận về nghiên cứu cho biết. Các phương pháp điều trị khác bao gồm kháng sinh tuần tự và các kết hợp khác. Jennings cũng nhấn mạnh những phát hiện rằng các phác đồ vonoprazan có hiệu quả vượt trội so với các chủng kháng clarithromycin. Jennings, trợ lý giáo sư y khoa tại Đại học Georgetown và giám đốc trung tâm điều trị chảy máu GI tại Bệnh viện Đại học MedStar Georgetown, cả hai đều ở Washington.
Ông cũng chỉ ra rằng các bác sĩ có thể phải đối mặt với một vấn đề hóc búa khi bệnh nhân thất bại trong nhiều liệu trình điều trị và đã thực hiện thử nghiệm cho thấy mức độ kháng thuốc cao. Một số bị dị ứng khiến họ không thể chuyển sang dùng các loại kháng sinh khác. Jennings nói: “Đó là một thị trường mà rất nhiều bác sĩ phải vật lộn.
Lượt dịch theo Medscape - Tác giả: Jim Kling, Ngày 02 tháng 11 năm 2021.
- 25/12/2021 17:59 - Nhiễm trùng thứ phát ở những bệnh nhân bị bệnh nặn…
- 22/12/2021 19:10 - Viêm ruột thừa và chẩn đoán phân biệt trên hình ản…
- 04/12/2021 08:58 - Cập nhật HIV và thai kỳ
- 28/11/2021 12:32 - Đặt stent nội sọ cứu vãn (RSA) trong điều trị đột…
- 14/11/2021 09:21 - Tim mạch - Ung thư học: Một chuyên ngành y học mới
- 08/11/2021 20:01 - Cập nhật khuyến cáo tầm soát ung thư cổ tử cung 20…
- 01/11/2021 17:39 - Chẩn đoán và xử trí huyết khối tĩnh mạch não
- 24/10/2021 09:22 - So sánh các liệu pháp điều trị nội khoa trong lạc …
- 23/10/2021 09:39 - Quan điểm hiện nay về xử trí các biến chứng cơ học…
- 05/10/2021 19:36 - Khuyến cáo của chuyên gia về việc xử trí bệnh nhân…