Ths Nguyễn Văn Tánh - Khoa YHCT
NHÂN SÂM
Đông y coi sâm là vị thuốc đứng đầu các vị thuốc bổ, theo thứ tự sâm, nhung, quế, phụ. Sâm nói ở đây là vị Nhân sâm. Tên Nhân sâm là do vị thuốc giống hình người. Nhân sâm là rễ cây Nhân sâm Panax ginseng, họ Ngũ gia bì Araliaceae .
Cây nhân sâm mọc hoang và được trồng ở Trung quốc, Triều tiên, vùng Viễn đông của Liên xô cũ, còn được trồng ở Nhật bản, Mỹ, nhưng nổi tiếng vẫn là sâm Triều tiên và sâm Trung quốc.
Theo YHCT, nhân sâm có vị ngọt, hơi đắng, vào kinh phế, tỳ, có tác dụng đại bổ nguyên khí, ích huyết, sinh tân dịch. Trên lâm sàng được ứng dụng để chữa chứng khí hư (người gầy, mệt nhọc, ăn kém, nói nhỏ, ngại nói); chứng choáng và trụy mạch do mất máu, mất nước (chân tay lạnh, sắc mặt trắng bệch, mạch nhỏ muốn tuyệt gọi là chứng vong dương hay thoát dương); sinh tân dịch để chữa chứng khát do âm hư, sốt kéo dài tân dịch giảm; an thần do huyết hư không nuôi dưỡng được tâm thần gây vật vã, ngủ ít, hốt hoảng; chữa hen suyễn do phế khí hư; cầm ỉa chảy mạn tính do tỳ hư.
Sâm Việt Nam từ 2 đến 6 tuổi