• Phone: 0235.3851.429
  • Hotline: 19009095
  • Thông tin:

dieuhanhtructuyen

Đào tạo NCKH

Nghiên cứu tăng glucose máu phản ứng ở bệnh nhân tai biến mạch máu não giai đoạn cấp

  • PDF.

Ths Bs Cao Thành Vân, Ths Bs Trình Trung Phong, Bs Hồ Ngọc Ánh

Tai biến mạch máu não (TBMMN) hay còn gọi là đột quỵ, là một trong những bệnh lý cấp cứu nội khoa thường gặp trên lâm sàng. Cho đến nay, tai biến mạch máu não vẫn là vấn đề thời sự cấp thiết của y học đối với mọi quốc gia, mọi dân tộc bởi lẽ bệnh ngày càng hay gặp, tăng theo tuổi, tỉ lệ tử vong còn khá cao, ngay cả khi thoát khỏi nguy hiểm đến tính mạng, bệnh cũng để lại những di chứng nặng nề về tâm thần kinh, là gánh nặng cho gia đình và xã hội.

tbmmn1

Tai biến mạch máu não gây ra nhiều rối loạn lâm sàng và cận lâm sàng phong phú, đa dạng. Trong đó, tăng glucose máu hay gặp trong giai đoạn cấp. Các nghiên cứu ở nước ngoài cho thấy có khoảng 20-40% bệnh nhân có tăng đường huyết trong giai đoạn cấp của TBMMN. Một số nghiên cứu trong nước cho thấy tỉ lệ này là 20-60%. Các nghiên cứu cũng cho thấy tăng Glucose máu phản ứng có giá trị dự đoán tăng nguy cơ tử vong trong tháng đầu và tăng nguy cơ phục hồi chức năng kém ở những bệnh nhân TBMMN sống sót. Mặt khác, tăng Glucose máu phản ứng cũng gây không ít khó khăn cho vấn đề điều trị, đặc biệt là những trường hợp cần xử trí cấp cứu vì khó xác định tăng glucose máu đó có phải do đái tháo đường (ĐTĐ) sẵn có hay do phản ứng với tổn thương não cấp. Hơn nữa, tăng glucose máu gây toan hóa tổ chức, rối loạn chuyển hóa tế bào, gia tăng tính thấm của hàng rào mạch máu não... làm nặng thêm các tổn thương cho tổ chức não, tăng tỉ lệ tử vong và di chứng sau đột quỵ

Với những lý do trên, chúng tôi tiến hành “Nghiên cứu tăng glucose máu phản ứng ở bệnh nhân tai biến mạch máu não giai đoạn cấp” nhằm hai mục tiêu sau:

1. Xác định tỷ lệ và mức độ tăng glucose máu phản ứng ở Tai biến mạch máu não giai đoạn cấp.
2. Xác định mối liên quan giữa tăng glucose máu phản ứng với độ trầm trọng của bệnh.

Mời các bạn xem tiếp tại đây

Lần cập nhật cuối lúc Thứ tư, 15 Tháng 5 2013 09:41

Kiểm soát đường huyết: Điều trị insulin

  • PDF.

Bs Huỳnh Ngọc Tin - Khoa Nội Thận-Nội tiết

1. Các khuyến cáo

1.1. Chăm sóc tiêu chuẩn (Standard care)

IN1. Khởi đầu điều trị insulin khi điều trị thuốc viên hạ đường huyết tối ưu và thay đổi lối sống không thể duy trì kiểm soát đường huyết ở mức mục tiêu.

Duy trì thay đổi lối sống sau khi dùng insulin.

Xem xét thăm dò liều khởi đầu hay tăng liều insulin, theo dõi đáp ứng…

IN2. Giải thích cho bệnh nhân ĐTĐ ngay từ khi chẩn đoán bệnh rằng insulin là một trong những lựa chọn điều trị sẵn có nhằm giúp kiểm soát bệnh ĐTĐ của họ và cách này có thể là tốt nhất, là cách cần thiết cuối cùng để duy trì kiểm soát đường huyết, đặc biệt trong thời gian dài.

IN3. Giáo dục bệnh nhân tiếp tục kiểm soát thay đổi lối sống và tự theo dõi thích hợp.

Giải thích rằng insulin khởi đầu thấp vì những lý do an toàn nhưng liều cuối cùng có thể lên đến 50-100 đơn vị/ngày.

Khởi đầu điều trị insulin trước khi kiểm soát đường huyết diễn tiến xấu hơn, thường là khi HbA1c theo DCCT>7,5% ở những bệnh nhân đang dùng thuốc viên liều tối đa.

Tiếp tục dùng metformin, cũng có thể tiếp tục dùng sulfonylurea khi bắt đầu điều trị insulin nền. Cũng có thể dùng tiếp ức chế -glucosidase.

insulin1

Lần cập nhật cuối lúc Chủ nhật, 28 Tháng 4 2013 08:56

Đọc thêm...

Kiểm soát đường huyết: Điều trị thuốc uống

  • PDF.

Bs Huỳnh Ngọc Tin - Khoa Nội Thận - Nội tiết

1. CÁC KHUYẾN CÁO

1.1. Chăm sóc tiêu chuẩn (Standard care)

OA1. Bắt đầu thuốc viên hạ đường huyết uống khi thay đổi lối sống đơn thuần không thể duy trì kiểm soát đường huyết ở mức mục tiêu.

Duy trì thay đổi lối sống trong suốt quá trtình sử dụng những loại thuốc này.

Theo dõi mỗi lần khởi đầu dùng hay tăng liều thuốc viên hạ đường huyết uống, theo dõi trong 2-6 tháng.

OA2. Bắt đầu bằng Metformin trừ khi có chứng cứ hay nguy cơ bị suy thận, tăng liều dần sau vài tuần để làm giảm thiểu khả năng ngưng thuốc do bất dung nạp qua đường dạ dày, ruột.

Theo dõi chức năng thận và nguy cơ suy thận đáng kể (tốc độ lọc cầu thận <60 ml/phút/1,73 m2) ở người điều trị bằng metformin.

metformin

Lần cập nhật cuối lúc Chủ nhật, 28 Tháng 4 2013 08:57

Đọc thêm...

Điều trị nội khoa băng huyết sau sanh

  • PDF.

Ths Nguyễn Thị Kiều Trinh

Đờ tử cung là nguyên nhân thường gặp nhất của băng huyết sau sanh (BHSS). Cho đến nay, mặc dù có nhiều biện pháp can thiệp nội khoa và hồi sức có hiệu quả, đờ tử cung vẫn còn là bệnh lý gây ra hàng ngàn trường hợp tử vong mẹ trên thế giới. Về phương diện lịch sử, thuốc dùng gây co hôi tử cung (TC) đầu tiên được tìm thấy là Ergot alkaloid, sau đó là Oxytocin, cuối cùng là các Prostaglandin.

Năm 1808, John Stearnsn đã tìm thấy các sản phẩm có chứa ergot về đặc tính gây co hồi tử cung, xem như chất có khả năng gây sanh nở và còn làm chất giục sanh. Tuy nhiên, cuối thế kỷ XIX, người ta đã nhận ra mối nguy hiểm của thuốc này khi dùng trong chuyển dạ, có thể gây ra cơn go cường tính gây nguy hiểm cho mẹ và thai trong chuyển dạ và sau đó đã chuyển hướng sang vai trò dự phòng và điều trị BHSS.

Năm 1909, Henry Dale đã khám phá ra Oxytocin, hormon polypeptide vùng dưới đồi được phóng thích từ thùy sau tuyến yên. Năm 1954 Vigneaud đã đạt giải Nobel khi tổng hợp được Oxytocin và những lợi ích của nó đối với sản khoa.

oxytoccin1

Đọc thêm...

Sử dụng diclofenac liên quan với tăng nguy cơ biến cố tim mạch

  • PDF.

Theo Medscape. Feb 13, 2013

Diclofenac là một thuốc kháng viêm không steroid (NSAID) thường được sử dụng để điều trị đau và viêm do viêm khớp. Hiện nay, thuốc này nằm trong danh sách thuốc thiết yếu (EML) của 74 quốc gia. Theo một một nghiên cứu thị trường ở 17 quốc gia, diclofenac là NSAID được sử dụng phổ biến nhất; nó có thị phần thô tương đương với thị phần của 3 thuốc ofibuprofen, naproxen và acid mefenamic cộng lại. Hai thuốc có nguy cơ cao là diclofenac and etoricoxib chiếm 1/3 thị phần ở các quốc gia này. Ở các nước Tây Âu và Bắc Mỹ, tỷ lệ sử dụng diclofenac tương đối thấp (chiếm khoảng 5-6% thị trường NSAID ở Mỹ và 17% ở Canada) nhưng lại rất phổ biến ở các nước không phương Tây (chiếm khoảng 30-40% thị phần ở Việt Nam, Pakistan, Trung Quốc và các nước khác). Bệnh nhân ở các nước này thật sự là những con nghiện nặng nhóm thuốc này, đặc biệt là đối với diclofenac. Thực tế, những quốc gia này đang trải qua một nạn dịch bệnh lý tim mạch ở thời điểm mà tần suất bệnh lý này đang có khuynh hướng giảm ở các nước phương Tây.

diclo2

Đọc thêm...

You are here Đào tạo