Bs Nguyễn Tấn Thương -CN Nguyễn Minh Nhựt -Khoa CĐHA
Ngày nay MDCT đã được sử dụng rộng rãi trong y học để khảo sát hình ảnh các cơ quan trong cơ thể. Riêng trong lĩnh vực tim mạch, đây là một phương tiện không xâm lấn rất tốt để khảo sát bệnh lý động mạch vành. Ứng dụng MD64 được áp dụng trong chẩn đoán và điều trị như sau:
1. Khảo sát cấu trúc giải phẫu hệ thống mạch vành
Với sự cải tiến về độ ly giải thời gian và không gian, kỹ thuật tái tạo hình ảnh ở thì tâm trương dựa vào điện tâm đồ hồi cứu, cùng với việc dùng thuốc ức chế beta làm giảm tần số tim, MDCT 64 có thể khảo sát các động mạch vành có đường kính nhỏ đến 1.5-2 mm và tránh được các xảo ảnh di động. Nhờ những đặc điểm kỹ thuật này người ta có thể khảo sát rõ ràng cấu trúc giải phẫu bình thường và các bất thường bẩm sinh của hệ thống mạch vành như các loại dị dạng của động mạch vành, túi phình, cầu cơ tim…
Hình ảnh bất sản động mạch vành (Phải) chụp tại BVĐK Quảng Nam
2. Khảo sát bệnh lý mắc phải của động mạch vành
Phát hiện các điểm vôi hóa động mạch vành
Các máy MDCT đều có khả năng phát hiện các điểm vôi hóa động mạch vành. Định lượng chất vôi động mạch vành được ghi nhận lần đầu tiên qua các máy chụp cắt lớp điện toán bằng chùm electron, nhưng hiện nay được thay thế dần bằng các máy MDCT. Các nghiên cứu về mô học cho thấy rằng giá trị đậm độ > 130 HU có liên quan mật thiết với sự hiện diện các mảng vôi hóa. Để xếp loại mức độ vôi hóa động mạch vành, người ta dùng bảng tính điểm của Agaston. Bảng tính điểm này sử dụng một ngưỡng diện tích > 1mm2 và một ngưỡng tỷ trọng > 130 HU để nhận ra cá tổn thương vôi hóa từ đó tiên lượng nguy cơ mắc bệnh động mạch vành trong tương lai.
Đánh giá gánh nặng mảng vữa ĐMV
Định lượng điểm vôi hóa động mạch vành cho ta biết được tình trạng xơ vữa ở mức độ nào đó, nhưng lại không đánh giá hết toàn bộ gánh nặng của mảng xơ vữa động mạch vành.
Chụp mạch vành bằng MDCT 64 không những cho phép phát hiện các tổn thương tắc nghẽn ở mức độ đáng tin cậy mà còn giúp phát hiện và xếp loại các mảng xơ vữa mạch vành ra loại mảng vữa có vôi hóa hay không vôi hóa, từ đó đánh giá được gánh nặng của mảng vữa lên động mạch vành.
Phát hiện tổn thương tắc nghẽn ĐMV
Trước đây, với máy MDCT4 và MDCT16, một số lượng đáng kể các mạch máu không được đánh giá vì độ ly giải thời gian và không gian tương đối thấp. Hơn nữa, thời gian quét lâu thường gây xảo ảnh trong lúc thở ở phần sau của quá trình quét. Những giới hạn này khbuieens có tới 32 % các mạch máu không thể phân tích được vì chất lượng hình ảnh xấu.
Hiện nay, độ nhạy và độ đặc hiệu khi phát hiện các tổn thương có ý nghĩa (hẹp trên 50% lòng mạch) bằng các máy MDCT 64 hiện hành là khoảng 90%, chất lượng hình ảnh khá hơn. Quan trọng hơn, số lượng các mạch máu không tiếp cận được đã giảm đáng kể với máy MDCT 64. Theo Raff và cộng sự chỉ loại trừ có 12% các mạch máu, trong khi Mollet và cộng sự không loại trừ bất cứ mạch máu nào vì lý do này.
Đánh giá tình trạng các stent trong động mạch vành
Sử dụng các ống phóng tia X có cường độ cao hơn và các phần mềm tái tạo hình ảnh tốt hơn cho phép đánh giá được tình trạng các stent. Tuy nhiên, những xảo ảnh do làm cứng chùm tia (beam hardening artefacts) có liên quan đến những chất liệu stent có tỷ trọng cao làm ảnh hưởng đến hình ảnh của lòng mạch vành bên trong stent và không cho phép đánh giá chính xác sự tăng sản lớp áo trong không gây tắc nghẽn. Đây là một giới hạn, tuy nhiên dù sao thì hình ảnh MDCT cũng giúp kiểm tra được vị trí, hình dạng stent và sự tắc nghẽn trong lòng stent.
Đánh giá tình trạng các mảnh ghép bắc cầu động mạch vành
Chụp cắt lớp điện toán xoắn ốc đa dãy đầu dò được dùng để đánh giá các mảnh ghép bắc cầu bằng động mạch hoặc tĩnh mạch.
Để phát hiện các mảnh ghép bị tắc sau phẫu thuật, các nghiên cứu mở đầu dùng các máy MDCT 4 (có 4 đầu dò), cho thấy độ nhạy và độ đặc hiệu khá cao là 97% và 98%.
Tuy nhiên khả năng phát hiện các chỗ hẹp có ý nghĩa trong các mảnh ghép tĩnh mạch và động mạch của các máy MDCT thế hệ cũ vẫn còn khá thấp: với máy MDCT 4, độ nhạy, độ đặc hiệu là 74% và 94%; còn với máy MDCT 16, độ nhạy và độ đặc hiệu là 81% và 87%. Với sự xuất hiện của các máy MDCT 64, chúng ta hy vọng khả năng phát hiện các chỗ hẹp này sẽ được cải thiện.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Phạm Ngọc Hoa và cộng sự (2006), “Phần bệnh lý mạch vành”, NXB Đại học y dược TP. HCM, tr. 95-103.
- Agaston AS, Janowitz WR et al (1990), “Quantification of coronary artery calcium using ultrafast computed tomography”,J Am Coll Cardiol (15), pp.827-32.
- David platten (2007), “Understanding Imaging Performance: Artefacts”. Impact course October 05, 2007, Hompage: http://www.impactscan.org.
- Kaeng W Lee, Jonathan Panting (2006), “Current status of non-invasive coronary angiography for the diagnosis of coronary artery stenosis”, the Bristish Journal of cardiology, volume 13(2), July 2006.
- Udo Hoffmann (2006), “Coronary CT Angiography”, The Journal of nuclear Medicine, Vol. 47(5).
- 31/10/2015 16:45 - Xây dựng đẳng cấp của cơ sở y tế qua việc đổi mới …
- 30/10/2015 20:23 - Ngày Thế giới rửa tay với xà phòng
- 30/10/2015 20:07 - Nấm Penicillium marneffei
- 28/10/2015 14:04 - Hormon tạo hoàng thể (LH)
- 25/10/2015 09:57 - Cách sơ cứu một số tai nạn, thương tích thường gặp
- 21/10/2015 19:08 - Phục hồi chức năng gãy cổ xương đùi
- 21/10/2015 13:10 - Sự cố y khoa - nguyên nhân và các giải pháp khắc p…
- 20/10/2015 13:52 - Bệnh lupus ban đỏ hệ thống
- 20/10/2015 13:16 - Theo dõi và chăm sóc người bệnh thở máy
- 16/10/2015 16:33 - Chế độ ăn uống trong một số bệnh thận