Ds Nguyễn Thị Mai
Tăng huyết áp là một trạng thái thường gặp và là yếu tố nguy cơ quan trọng cho sự phát triển các bệnh về tim mạch. Nhiều bệnh nhân tăng huyết áp không được chẩn đoán do hiện tượng huyết áp cao thường không thể hiện triệu chứng gì, và chỉ được phát hiện qua những đợt khám sức khỏe thường kỳ, hay qua những biến chứng của tình trạng tăng huyết áp như đột quỵ, thiếu máu cục bộ cơ tim, các bệnh về thận…
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến tăng huyết áp trong đó có những yếu tố có thể khắc phục được như: hút thuốc lá, béo phì, ăn nhiều muối, không tập thể dục và ít hoạt động thể lực…và những yếu tố không thể thay đổi được như: người cao tuổi, gia đình có tiền sử tăng huyết áp …Một yếu tố ít chú ý đến là việc sử dụng nhiều loại thuốc gây tăng huyết áp.
Sau đây là tổng hợp một số loại thuốc có thể gây tăng huyết áp hoặc làm bệnh tăng huyết áp đã có sẵn nặng thêm:
Các thuốc gây tăng huyết áp:
Các chế phẩm thuốc tránh thai đường uống:
Đã có bằng chứng mới cho thấy có mối liên quan giữa tăng huyết áp với các viên thuốc trang thai. Các thuốc tránh thai hỗn hợp estrogen và progesteron có khuynh hướng làm tăng huyết áp, trung bình mức độ tăng là 5/3mmHg. Có khoảng 1% những trường hợp dùng thuốc có tăng huyết áp nặng. Cơ chế tăng huyết áp, cơ chế tăng nhạy cảm ở 1% bệnh nhân nói trên chưa rõ. Huyết áp trở lại mức bình thường sau khi ngừng dùng thuốc. Với một số phụ nữ, sau khi dùng viên thuốc tránh tahi hỗn hợp được vài tháng, thậm chí vài năm huyết áp mới bắt đầu tăng nhanh. Viên thuốc tranhs thai chỉ chứa progesteron thì không gây tăng huyết áp.
Các thuốc giống giao cảm: Ephedrin, phenyl propanolamin:
Ephedrin và những chất cùng họ như pseudoephedrin, norpseudoephedrin, methylephedrin và norephedrin (phenyl propanolamin) đều có tác dụng chống giao cảm. Phenylephdrin và pseudoephedrin còn được dùng rộng rãi làm chất chống xung huyết tại chỗ niêm mạc mũi, và gây co mạch, chống ngạt mũi. Trong điều trị tại chỗ ví liều nhỏ ít tác dụng phụ. Dùng tại chỗ với liều cao hay dùng toàn thân có thể gây tăng huyết áp. Hai chất Phenylephdrin và pseudoephedrin được nhận định là an toàn ở những bệnh nhân tăng huyết áp được kiểm soát tốt, mặc dù vẫn có những báo cáo về các sự cố do tăng huyết áp như sự cố về mạch máu não, tim mạch. Điều lo lắng đặc biệt là các chất nói trên có thể gây xuất huyết mạng nhện. Tất cả những thuốc này đều chống chỉ định ở những bệnh nhân thiếu máu cục bộ cơ tim, do cá thể gây co thắt động mạch vành.
Việc dùng đồng thời các thuốc giống giao cảm với các thuốc ức chế monoamino oxydase( IMAO) là nguy hiểm, do làm giảm chuyển hóa các hợp chất cùng họ với ephedrin và làm tăng cường tác dụng phụ trên tim.
Các thuốc kích thích hệ thần kinh trung ương:
Các thuốc kích thích hệ thần kinh trung ương như dexamphetamin và methyl phenidat có tác dụng giống giao cảm, hay được dùng trong các chứng thiếu tập trung tư tưởng – quá hiếu động ( ADHD), chứng có những cơn ngủ thoáng qua và hay gây tăng huyết áp, có thể dẫn tới xuất huyết nội sọ, tho thắt động mạch và thiếu máu cục bộ cơ tim.
Các glucocorticoid và mineralocorticoid:
Các glucocorticoid có thể làm tăng huyết áp, mức độ tăng phụ thuộc vào liều. Đó là hậu quả của hiện tượng ứ muối. Điều này có thể nhận thấy khi dùng thuốc theo bất cứ đường dùng nào, kể cả dùng ngoài da.các mineralocorticoid có tác dụng trực tiếp gây co mạch – làm tăng huyết áp.
Các thuốc chống viêm phi steroid( NSAID):
Các prostaglandin( PGE2 và PGL2) được sinh ra do xúc tác của cyclooxygenase(COX), có chức năng đảm bảo lưu lượng máu ở thận, và sự bài tiết natri qua nước tiểu. Sự ức chế cyclooxygenase bởi các thuốc chống viêm phi steroid có thể gây ứ muối và nước gây cả khi không có suy giảm chức năng thận, điều này có thể làm tăng huyết áp lên khoảng 3-5mmHg. Ngoài ra các NSAID còn làm giảm hiệu quả các thuốc điều trị tăng huyết áp.
Natri:
Việc giảm ăn muối có thể làm giảm huyết áp 3-5mmHg. Các tài liệu hướng dẫn của Mỹ và Châu Âu gợi ý lượng natri dùng hàng ngày khoảng 100mmol( tương đương với 2,3gam natri hay 5,8gam natri clorid) hoặc thấp hơn để đảm bảo huyết áp được tốt. Nhiều thuốc như diclofenac, prednisolon, hydrocortison… có bản chất là muối natri, nhiều loại thuốc kháng acid dịch vị chứa natri bicarbonate hay paracetamol hòa tan chứa 427mg natri có thể liên quan đến tăn huyết áp.
Ciclosporin:
Ciclosporin có thể gây tăng huyết áp, nhất là khi phối hợp với corticosteroid và tác dụng này không phụ thuộc vào liều. Tỷ lệ tử vong do các sự cố về tim mạch ở những bệnh nhân ghép tạng dùng Ciclosporin cao hơn ở người bình thường. Có thể là Ciclosporin đã làm mất cân bằng giữa các prostaglandin gây co mạch và gây giãn mạch làm ảnh hưởng đến các chất có tác dụng trên chức năng các mao mạch, làm tăng endothelin và làm giảm natri, dẫn tới co mạch và thiếu máu cục bộ ở cuộn tiểu cầu. Cũng có một số bằng chức là có tăng sản xuất renin, có hiện tượng tăng sinh ở gần cầu thận, và hoạt hóa hệ thần kinh giao cảm. Tất cả các hiệu ứng kể trên đều dẫn tới ứ natri và tăng huyết áp. Những thuốc corticosteroid thường được dùng đồng thời với Ciclosporin lại làm tăng thêm hiện tượng ứ natri. Trong những trường howph tăng huyết áp do thuốc này việc dùng các thuốc lợi tiểu và các thuốc chẹn kênh calci mang lại nhiều lợi ích.
Các thuốc điều biến miễn dịch :
Leflunomid và infliximab dùng trong điều trị viêm khớp dạng thấp có thể gây tăng huyết áp trong một số trường hợp, hoặc làm nặng thêm bệnh tăng huyết áp đã có từ trước. Tỷ lệ tăng huyết áp có thể tới 30% những người dùng thuốc này và tỷ lệ này có thể cao hơn nếu dùng phối hợp hai thuốc.
Các thuốc dùng trong các bệnh tâm thần:
Nhiều báo cáo cho thấy hiện tượng tăng huyết áp là tác dụng phụ của các thuốc an thần điển hình và không điển hình.
Một số thuốc chống trầm cảm như các thuốc chống trầm cảm ba vòng, các thuốc ức chế tái hấp thu hồi serotonin và nhiều loại thuốc khác có thể gây tăng huyết áp hoặc làm nặng thêm tình trạng tăng huyết áp sẵn có ở bệnh nhân.
Các thuốc IMAO có tác dụng ức chế sự chuyển hóa của các monoamine giống giao cảm. Có thể xảy ra những cơn tăng huyết áp ở bệnh nhân dùng các thuốc IMAO cùng với các chất này làm tăng sự hấp thu các monoamine hay cùng với các thuốc giống giao cảm. Triệu chứng lâm sàng trong trường hợp này giống như trường hợp u tế bào ưa crom. Venlafaxin, một thuốc ức chế tái thu hồi serotonin và noradrenalin có liên quan đặc biệt đến tăng huyết áp. Tác dụng phụ này phụ thuốc vào liều lượng : thuốc làm tăng huyết áp tâm trương khoảng 7-10mmHg khi dùng ở liều cao.
Các liệu pháp kháng retrovirus hoạt tính cao:
Một số công trình nghiên cứu quy mô rộng trên những nam giới dương tính với HIV đã chứng minh có mối liên quan giữa việc điều trị bằng các thuốc kháng retrovirus hoạt tính cao trên 2 năm biểu hiện bằng tăng huyết áp tâm thu.
Các chất kích thích tạo hồng cầu( ESA= Erythropoiesisstimulating agent)
Sau 20 năm đưa vào sử dụng trong lâm sàng các thuốc tạo hồng cầu đã được chứng minh là những thuốc có khả năng gây tăng huyết áp. Đa số những bệnh nhân dùng ESA có bệnh thận mạn tính, và có khaongr 30% trong số họ bị tăng huyết trong quá trình điều trị thiếu máu, thường là tăng huyết áp đã có từ trước ở bệnh nhân.
Một số dược liệu:
Cần thận trong khi dùng một số thảo dược cho bệnh nhân tăng huyết áp. Dược liệu Ma hoàng dùng để giảm cân có chứa các alkaloid của Ephedra làm nguyên liệu để chiếc xuất ephedrin, chất này có tác dụng trên tim và có thể tăng huyết áp.
Hội chứng ngừng thuốc:
Một số thuốc khi ngừng dàng có thể gây tái xuất hiện tăng huyết áp. Ví dụ clonidin, các thuốc chẹn beta, methyldopa, gamma hydroxybutyrat( khi phụ thuộc thuốc), rượu( khi nghiện rượu). Việc ngừng thuốc đột ngột các chất trên làm hoạt hóa hệ giao cảm quá mức trong vòng 36-72 giờ gây nhịp tim nhanh, lo âu, tăng huyết áp.
Kết luận:
Một số thuốc có thể gây tăng huyết áp hay làm bệnh tăng huyết áp nặng thêm, đặc biệt là ở những người cao tuổi mắc nhiều bệnh phải dùng nhiều loại thuốc nên hện tượng tăng huyết áp thường hay gặp. Do vậy các thầy thuốc điều trị cần chú ý đến điều này, tránh gây tăng huyết áp và sớm giải quyết các triệu chứng khi xảy ra.
Tài liệu tham khảo:
- Tạp chí dược lâm sàng
- Dược lâm sàng và điều trị tập 2
- Thuốc và điều trị
- Tương tác thuốc và chú ý khi sử dụng
- 26/09/2014 08:54 - Những thành tựu từ liệu pháp tế bào gốc
- 24/09/2014 12:13 - Chế độ ăn uống, luyện tập cho bệnh nhân tăng huyết…
- 23/09/2014 16:32 - Các nguyên tắc lấy máu làm xét nghiệm đông máu và …
- 23/09/2014 16:16 - Sự cần thiết nhịn ăn uống trước khi bệnh nhân phẫu…
- 22/09/2014 19:44 - Công văn điện tử
- 20/09/2014 09:02 - Trưa nắng
- 20/09/2014 08:28 - Phục hồi chức năng cho trẻ bị tự kỷ
- 17/09/2014 21:39 - Sự cần thiết của một hệ thống camera quan sát tron…
- 15/09/2014 21:00 - Bảo vệ tầng ozon - bảo vệ cuộc sống
- 12/09/2014 19:49 - Ngày thế giới phòng chống bệnh dại 28/9