• Phone: 0235.3851.429
  • Hotline: 19009095
  • Thông tin:

dieuhanhtructuyen

Y học thường thức

Liên quan tình trạng sức khoẻ răng miệng và nhiễm Covid-19

  • PDF.

Bs Nguyễn Minh Đức - 

Sự lây truyền từ người sang người của bệnh vi-rút corona mới 2019 (COVID-19) là một đại dịch toàn cầu. Tính đến ngày 13 tháng 3 năm 2021, COVID-19 đã ảnh hưởng đến hơn 119 triệu người trên toàn cầu. COVID-19 là một bệnh truyền nhiễm gây ra bởi hội chứng hô hấp cấp tính nặng do vi-rút corona 2 (SARS-CoV-2), một loại vi-rút có vỏ bọc RNA đơn chuỗi [1]. Một số lượng lớn protein hình gai glycosyl hóa bao phủ bề mặt của SARS-CoV-2 và liên kết với enzyme chuyển đổi angiotensin 2 (ACE2) của thụ thể tế bào chủ với sự phân cắt sau đó bởi enzyme protease serine 2 xuyên màng (TMPRSS2), làm trung gian cho sự xâm nhập tế bào của virus [ 1], [2], [3], [4].

Các triệu chứng điển hình nhất của các trường hợp mắc COVID-19 là sốt, ho, nhức đầu, mệt mỏi và khó thở nhẹ. Các triệu chứng khác bao gồm khô miệng, đau họng, đau cơ, nôn mửa và tiêu chảy [5]. Khoang miệng có liên quan đến COVID-19, vì thụ thể ACE2 và TMPRSS2 đã được xác định trong các tế bào biểu mô của niêm mạc miệng [6] và tuyến nước bọt [2,7,8]. Tình trạng sức khỏe răng miệng ở người lớn bị nhiễm COVID-19 đã được ghi nhận ở nhiều quốc gia. Một báo cáo trường hợp từ Ả Rập Saudi đã mô tả ba bệnh nhân nhiễm SARS-CoV-2 bị chảy máu nướu diện rộng [9]. Một nghiên cứu theo chiều dọc gần đây về những người sống sót sau COVID-19 ở Milan, Ý, đã phát hiện ra rằng tỷ lệ mắc chứng giãn tuyến nước bọt (cho thấy phản ứng viêm quá mức đối với SARS-CoV-2) và khô miệng trong số 122 người sống sót sau COVID-19 là 43% và 25%. tương ứng [10].

Tình trạng sức khỏe răng miệng có ý nghĩa hệ thống trong việc duy trì trạng thái khỏe mạnh (cộng sinh). Bằng chứng tích lũy đã chứng minh mối liên quan giữa tình trạng sức khỏe răng miệng và các bệnh toàn thân[11,12].

Hầu hết, các bệnh nhân dương tính với covid 19 được báo cáo đã trải qua các tổn thương như:

  • Khô miệng:
  • Tổn thương miệng
  • Biểu hiện và bệnh nha chu
  • Đau miệng mặt

Các nghiên cứu gần đây [6], [7], [8] đã gợi ý rằng khoang miệng có khả năng nhạy cảm cao với nhiễm trùng COVID-19 do sự tồn tại của thụ thể ACE2 và TMPRSS2 trong các tế bào biểu mô của niêm mạc miệng [6] và tuyến nước bọt [2,7,8]. Một nghiên cứu sau khi khám nghiệm tử thi 7 người chết vì COVID-19 đã tìm thấy sự hiện diện của SARS-CoV-2 trong mô nha chu [13]. Các phân tích mô bệnh học đã xác định những thay đổi về hình thái trong các tế bào sừng của biểu mô tiếp giáp, quá trình tạo không bào của tế bào chất, và đa hình nhân và nhân [13]. Sự phân bố của các thụ thể ACE2 có thể giúp xác định con đường lây nhiễm SARS-CoV-2. Sự hiện diện của các thụ thể ACE2 trên màng nhầy miệng và tuyến nước bọt có thể liên quan đến nhiễm trùng COVID-19 và rối loạn chức năng sau đó. Sự tương tác giữa SARS-CoV-2 và ACE2 và sự phân cắt sau đó bởi enzyme TMPRSS2 có thể phá vỡ chức năng của tế bào sừng trong miệng và lớp biểu mô của ống tuyến nước bọt [41], có khả năng dẫn đến tình trạng sức khỏe răng miệng [14] .

Kết quả cho thấy khô miệng là tình trạng sức khỏe răng miệng phổ biến nhất (41%), tiếp theo là tổn thương miệng (38,8%), đau vùng miệng mặt (18,3%) và các triệu chứng nha chu (11,7%). Chúng tôi cũng nhận thấy rằng các triệu chứng nha chu có liên quan đến mức độ nghiêm trọng của COVID-19.

Các phát hiện của tổng quan hệ thống này chỉ ra rằng tình trạng sức khỏe răng miệng có thể trở nên tồi tệ ở những người bị nhiễm COVID-19 và cần được xem xét trong cả giai đoạn khởi phát và tiến triển của bệnh bởi nha sĩ và trung tâm chăm sóc y tế.

Nguồn:

  1. Zhang H., Penninger J.M., Li Y., Zhong N., Slutsky A.S. Angiotensin-converting enzyme 2 (ACE2) as a SARS-CoV-2 receptor: molecular mechanisms and potential therapeutic target. Intensive Care Med. 2020;46:586–590.
  2. Huang N., Pérez P., Kato T., Mikami Y., Okuda K., Gilmore R.C., et al. SARS-CoV-2 infection of the oral cavity and saliva. Nat Med. 2021
  3. Usami Y., Hirose K., Okumura M., Toyosawa S., Sakai T. Brief communication: immunohistochemical detection of ACE2 in human salivary gland. Oral Sci Int
  4. V'kovski P., Kratzel A., Steiner S., Stalder H., Thiel V. Coronavirus biology and replication: implications for SARS-CoV-2. Nat Rev Microbiol. 2021;19:155–170
  5. Singh A., Purohit B.M., Taneja S. Loneliness and disability as predictors of oral diseases among 2 groups of older adults in central India. J Am Dent Assoc.
  6. Xu H., Zhong L., Deng J., Peng J., Dan H., Zeng X., et al. High expression of ACE2 receptor of 2019-nCoV on the epithelial cells of oral mucosa. Int J Oral Sci. 2020;12:8
  7. Pascolo L., Zupin L., Melato M., Tricarico P.M., Crovella S. TMPRSS2 and ACE2 Coexpression in SARS-CoV-2 Salivary Glands Infection. J Dent Res. 2020;99:1120–1121.
  8. Xu J., Li Y., Gan F., Du Y., Yao Y. Salivary glands: Potential reservoirs for COVID-19 asymptomatic infection. J Dent Res. 2020;99
  9. Manzalawi R., Alhmamey K., Abdelrasoul M. Gingival bleeding associated with COVID-19 infection. Clin Case Rep. 2021;9:294–297
  10. Gherlone E.F., Polizzi E., Tetè G., De Lorenzo R., Magnaghi C., Rovere Querini P., et al. Frequent and persistent salivary gland ectasia and oral disease after COVID-19. J Dent Res. 2021
  11. Gomes-Filho I.S., Cruz S.S., Trindade S.C., Passos-Soares J.d.S., Carvalho-Filho P.C., Figueiredo A., et al. Periodontitis and respiratory diseases: a systematic review with meta-analysis. Oral Dis. 2020;26:439–446.
  12. Qi X., Zhu Z., Plassman B.L., Wu B. Dose-response meta-analysis on tooth loss with the risk of cognitive impairment and dementia. J Am Med Dir Assoc. 2021;22:2039–2045
  13. Fernandes Matuck B., Dolhnikoff M., Maia G.V.A., Isaac Sendyk D., Zarpellon A., Costa Gomes S., et al. Periodontal tissues are targets for Sars-Cov-2: a post-mortem study. J Oral Microbiol. 2021;13
  14. Sampson V., Kamona N., Sampson A. Could there be a link between oral hygiene and the severity of SARS-CoV-2 infections? Br Dent J. 2020;228:971–975.

An toàn cho mắt khi chơi thể thao

  • PDF.

BS. Lê Văn Hiếu – 

Hằng năm có đến hàng ngàn thương tật về mắt xảy ra trong thể thao và các hoạt động giải trí. Điều may mắn là 90% chấn thương mắt nghiêm trọng có thể phòng tránh được bằng cách sử dụng các vật dụng bảo vệ mắt thích hợp.

Cách phòng ngừa và điều trị chấn thương mắt khi chơi thể thao

Nguy cơ tổn thương mắt thay đổi tùy vào loại hoạt động. Phải thay đổi cách bảo vệ mắt cho phù hợp với từng loại môn thể thao. Mắt kính thông thường không phù hợp cho việc bảo vệ mắt, trong một số trường hợp có thể làm cho vết thương nặng hơn nếu chúng bị vỡ.

antoanmat1

Đọc thêm...

Quy trình bảo dưỡng máy sấy công nghiệp

  • PDF.

Phòng TVTBYT - 

Máy móc, trang thiết bị hoạt động ổn định, hiệu quả khi được bảo trì, bảo dưỡng định kỳ. Phát hiện kịp thời các nguy cơ hư hỏng và khắc phục sớm tiết kiệm được chi phí, tăng tuổi thọ, giảm tối đa thời gian ngừng hoạt động của máy để sửa chữa.

Quy định chung: Máy sấy sẽ được thực hiện công việc kiểm tra và bảo dưỡng bởi 1 nhóm Nhân Viên Kỹ Thuật, trong đó sẽ phân công 1 người chịu trách nhiệm chính về kỹ thuật. Công tác kiểm tra và bảo trì sẽ được thực hiện định kỳ 3 tháng/ 1 lần.

Thực hiện công việc kiểm tra và bảo dưỡng máy sấy theo các bước sau đây:

  1. Chạy thử để kiểm tra tình trạng hoạt động của máy (trong trường hợp máy hoạt động không bình thường thì phải xác định được hư hỏng và báo lại cho đơn vị sử dụng biết).
  2. Kiểm tra hệ thống điện điều khiển, siết các đầu cốt, khởi động từ, các Rơle.
  3. Siết chặt các ốc vít, bulon và nghe tiếng chạy của máy.
  4. Kiểm tra và điều chỉnh độ cân bằng của máy.
  5. Kiểm tra, tra dầu mỡ và vệ sinh motor.
  6. Dùng máy hút, xịt bụi để vệ sinh các khởi động từ và motor
  7. Dùng khăn mềm, khô lau sạch các phần điều khiển, các bộ phận nối điện bên trong máy và toàn bộ máy.
  8. Chạy thử, theo dõi chức năng hoạt động của máy.
  9. Kiểm tra các thông số kỹ thuật của máy lần cuối và bàn giao cho đơn vị sử dụng. Ghi sổ theo dõi bảo dưỡng định kỳ.

Tài liệu tham khảo:

  1. Catalog, Serevice Manual của máy sấy công nghiệp 60 kg – Model :T41200 – Electrolux Professional AB

Các bệnh nhiễm trùng ở vật chủ bị tổn hại miễn dịch

  • PDF.

Bs Trà Quang Ân - 

Thực tiễn lâm sàng, những người bị thiếu sức đề kháng với nhiễm trùng vì lý do thiếu hụt một trong vô số các cơ chế phòng vệ vật chủ thì được gọi là “vật chủ bị tổn hại”, những thuật ngữ khác như “vật chủ không bình thường”, “vật chủ bị suy giảm miễn dịch” cũng thường được sử dụng song đều mang các sắc thái khác nhau. Hai thuật ngữ sau cũng chỉ đích danh một quần thể nhỏ các vật chủ nhỏ bị tổn hại mà sự thiếu hụt nghiêm trọng trong tính chất hoạt động chống vi khuẩn có liên quan đến miễn dịch có khuyết tật ở người bệnh.

Phòng vệ vật chủ bị thiếu hụt có thể do nhiều yếu tố khác nhau gây ra, bao gồm các rối loạn di truyền, các bệnh song song tồn tại hay chấn thương, nghiện rượu, thiếu dinh dưỡng, hoặc đang dùng thuốc điều trị một bệnh nào đó.

Các thuốc thường gây thiếu hụt nhiều nhất cho vật chủ là các tác nhân gây độc tế bào và glucocorticoid được dùng điều trị các bệnh u ác tính, các rối loạn tạo keo mạch máu và các cơ quan ghép.

Ngày nay, ngày càng có nhiều bệnh có thể được khống chế hoặc chữa khỏi nhờ quá trình giải phẫu phức tạp và triệt để, nhờ đặt- ghép các vật thể lạ vào cơ thể hoặc dùng các thuốc gây độc tế bào hoặc chống viêm mạnh. Các biến chứng không do nhiễm trùng như xuất huyết, tăng ure máu hoặc mảnh thải ghép được xử lí ngày càng có hiệu quả nên bệnh nhiễm trùng đang trở thành mối đe dọa lớn đến chất lượng và thời lượng cuộc sống của nhiều quần thể bệnh nhân khác nhau.

Ở các vật chủ đã bị tổn hại, sự xuất hiện các bệnh nhiễm trùng, phản ánh tương tác giữa các cơ chế phòng vệ vật chủ mang tính miễn dịch hoặc không mang tính miễn dịch đã bị hư tổn với môi trường vi sinh nội sinh và ngoại sinh.

Các yếu tố làm thay đổi vi khuẩn chí thì cũng có một ảnh hưởng quan trọng đến các cơ quan mà chắc là gây ra bệnh. Các yếu tố như vậy bao gồm biện pháp chống vi khuẩn, các thủ thuật xâm nhập- can thiệp lên cơ thể, hay chấn thương hay ăn- hít phải các chất liệu nhiễm trùng và cả chính việc nhập viện điều trị nội trú. Tuy vậy, typ nhiễm trùng nào xuất hiện thì thường là hậu quả các hư tổn đặc hiệu trong các cơ chế phòng vệ vật chủ. Có vô số các quá trình có thể tạo điều kiện để cho nhiễm trùng trở thành nghiêm trọng bằng cách gây tổn hại cho các hàng rào giải phẫu và vật lý hoặc phòng vệ vật chủ.

Các khuyết tật trong hoạt động chống viêm và miễn dịch giúp các bệnh nhiễm trùng mà bình thường thì bị nhanh chóng tiêu diệt, thì giờ đây lại tiến triển và gây ra bệnh có biểu hiện quan trong về mặt lâm sàng. Các khuyết tất về số lượng và chất lượng này có thể do một rối loạn bẩm sinh, một bệnh mắc phải do dùng thuốc điều trị. Nhiều typ khuyết tật đặc hiệu thấy có các biến chứng nhiễm trùng rất hay gặp hoặc nặng trên lâm sàng.

Lần cập nhật cuối lúc Thứ hai, 26 Tháng 6 2023 21:43

Cái ghẻ - Sarcoptes scabiei

  • PDF.

 

CN. Nguyễn Trần Thống Nhất - 

Sarcoptes scabiei (cái ghẻ) là một loại ve ký sinh chui vào da và gây ra bệnh ghẻ . Chúng được tìm thấy ở khắp mọi nơi, gây nên tình trang viêm da ở người và gây nên tình trạng tương tự ở động vật có vú khác.

Vòng đời của Sarcoptes scabiei

Sarcoptes scabiei trải qua bốn giai đoạn trong vòng đời của nó: trứng, ấu trùng, nhộng và trưởng thành. 

Con cái đẻ 2-3 quả trứng mỗi ngày khi chúng đào hang dưới da . Trứng có hình bầu dục và dài 0,10 đến 0,15 mm và nở sau 3 đến 4 ngày. Sau khi trứng nở, ấu trùng di chuyển lên bề mặt da và chui vào lớp sừng nguyên vẹn để xây dựng những cái hang ngắn gần như vô hình được gọi là túi lột xác. Giai đoạn ấu trùng chui ra khỏi trứng chỉ có 3 cặp chân và tồn tại khoảng 3 đến 4 ngày. Sau khi ấu trùng lột xác, nhộng có 4 đôi chân. Dạng này lột xác thành nhộng lớn hơn một chút trước khi lột xác thành con trưởng thành. Ấu trùng và nhộng thường có thể được tìm thấy trong các túi lột xác hoặc trong nang lông và trông tương tự như con trưởng thành, chỉ nhỏ hơn. Con trưởng thành là những con ve không có mắt, hình túi. Con cái dài 0,30 đến 0,45 mm và rộng 0,25 đến 0,35 mm và con đực có kích thước hơn một nửa. Giao phối xảy ra sau khi con đực đang hoạt động xâm nhập vào túi lột xác của con cái trưởng thành. Việc giao phối chỉ diễn ra một lần và khiến con cái có khả năng sinh sản trong suốt quãng đời còn lại. Những con cái rời khỏi túi thay lông và đi lang thang trên bề mặt da cho đến khi chúng tìm thấy một địa điểm thích hợp để làm hang cố định. Khi ở trên bề mặt da, chúng bám vào da bằng cách sử dụng các gai giống như mút gắn vào hai cặp chân phía trước nhất. Khi con ghẻ cái tìm thấy một vị trí thích hợp, nó bắt đầu đào hang ngoằn ngoèo đặc trưng của mình, đẻ trứng trong quá trình này. Sau khi con cái vào da, nó vẫn ở đó và tiếp tục kéo dài hang và đẻ trứng cho đến hết đời (1-2 tháng). Trong những điều kiện thuận lợi nhất, khoảng 10% số trứng của nó cuối cùng sẽ phát triển thành ghẻ trưởng thành. Con đực hiếm khi được nhìn thấy; sự lây truyền xảy ra chủ yếu do sự lây truyền của những phụ nữ đã mang thai trong quá trình tiếp xúc giữa người với người, da kề da. Đôi khi sự lây truyền có thể xảy ra qua các vật dụng (ví dụ: giường hoặc quần áo).

caighe2

Xem tiếp tại đây

 

You are here Tổ chức Y học thường thức