• Phone: 0235.3851.429
  • Hotline: 19009095
  • Thông tin:

dieuhanhtructuyen

Y học thường thức

Co thắt phế quản do gắng sức

  • PDF.

Bs Lê Thị Hậu - 

I. GIỚI THIỆU

Co thắt phế quản do gắng sức (Exercise-induced bronchoconstriction – EIB) mô tả sự co thắt phế quản cấp tính xảy ra thường vào thời điểm sau vài phút hoạt động gắng sức. Thuật ngữ “hen do gắng sức” được dùng để mô tả co thắt phế quản sau khi vận động nhiều, nhưng các diễn đạt này có khả năng gây hiểu lầm, vì hoạt động gắng sức không phải là yếu tố nguy cơ độc lập của bệnh hen mắc hen, mà là tác nhân gây co thắt phế quản ở người có bệnh hen tiềm ẩn.

II. DỊCH TỄ HỌC

  • Tỷ lệ mắc EIB khoảng 5-20% dân số nói chung.
  • Và có thể lên đến 90% người mắc hen.

III. TRIỆU CHỨNG

Bệnh nhân EIB thường có hiện tượng giãn phế quản trong 5-8 phút ban đầu sau khi gắng sức, và theo sau đó là sự co thắt phế quản, và triệu chứng nặng dần và đạt đỉnh khoảng 10-15 phút và kết thúc sau 60 phút.

Các triệu chứng điển hình:

EIB

Đọc thêm...

Lần cập nhật cuối lúc Thứ năm, 18 Tháng 5 2023 10:54

Hệ thống vận chuyển mẫu bệnh phẩm xét nghiệm tự động bằng khí nén

  • PDF.

CN Phan Minh Tự - 

Ứng dụng hệ thống ống - khí nén để vận chuyển các mẫu bệnh phẩm xét nghiệm hoàn toàn tự động mang lại nhiều lợi ích quan trọng như tiết kiệm thời gian và nhân lực, tăng tính an toàn, nhanh chóng và chính xác, từ đó nâng cao chất lượng khám chữa bệnh trong các cơ sở y tế hiện đại. Khi cần chuyển mẫu bệnh phẩm, nhân viên y tế chỉ cần để mẫu bệnh phẩm vào hộp chuyển, rồi lắp hộp chuyển vào hệ thống, sau đó bấm nút khởi động hệ thống thì mẫu bệnh phẩm được vận chuyển đến phòng xét nghiệm hóa sinh và sau đó vận chuyển kết quả ngược lại.

Hệ thống chuyển mẫu xét nghiệm tự động bằng khí nén được đưa vào hoạt động tại Bệnh viện Đa khoa Quảng Nam từ cuối năm 2018 đến nay. Hệ thống này đã kết nối khoa xét nghiệm Hóa Sinh ở tầng 3 khu kỹ thuật với khu vực phòng khám, khoa cấp cứu, để nhận mẫu và trả kết quả xét nghiệm cho khoa Hóa Sinh, Vi Sinh.

Hệ thống chuyển mẫu xét nghiệm tự động bao gồm: trạm vận chuyển, hộp vận chuyển, và hệ thống đường ống.

Để mẫu vật cần chuyển vào hộp chuyển.

 

vanchuyenmau

Xem tiếp tại đây

 

Lần cập nhật cuối lúc Thứ tư, 17 Tháng 5 2023 19:06

Cách xử trí cấp cứu đuối nước ngay tại hiện trường

  • PDF.

BsCK1 Đặng Ngọc Thành - 

Đuối nước có thể xẩy ra mọi lúc, mọi nơi, mọi hoàn cảnh và mọi loại đối tượng, nhất là trẻ em. Cấp cứu đuối nước nói riêng và các tai nạn, thương tích nói chung tại hiện trường là rất quan trọng, quyết định sự sống và di chứng của nạn nhân. Nếu cấp cứu tại chỗ không đúng cách, không kịp thời thì dù có đưa nạn nhân đến bệnh viện để hồi sinh tim phổi có lại mạch, huyết áp, thở nhưng sẽ để lại di chứng về thần kinh nặng nề, thậm chí là sống thực vật. Nên nhớ rằng tế bào não chỉ chịu được sự thiếu oxy trong vòng 4 phút, vì vậy chúng ta chỉ có từ 1 – 4 phút để hành động.

1. Các bước sơ cứu: Nhanh chóng đưa nạn nhân ra khỏi nước

- Nếu nạn nhân còn tỉnh, giãy giụa dưới nước: Ném cho nạn nhân một cái phao, một khúc gỗ, một sợi dây hoặc một cây sào để giúp họ lên bờ. Không nên nhảy xuống nước nếu không biết bơi, hoặc không được huấn luyện cách đưa người đuối nước còn tỉnh lên bờ. Vì nạn nhân lúc này trong tình trạng hoảng loạn, dễ níu chặt lấy bất cứ thứ gì vớ được, kể cả người cứu nạn, như vậy sẽ rất nguy hiểm cho người cứu. Khi cấp cứu nạn nhân ngay ở dưới nước cần phải nâng đầu nạn nhân nhô lên khỏi mặt nước, có động tác để giúp cho nạn nhân trấn tĩnh và thở.

- Nếu nạn nhân bất tỉnh dưới nước và người cấp cứu biết bơi thì nhanh chóng bơi ra kéo nạn nhân vào bờ. Trường hợp không biết bơi thì tìm cách hô hoán, gọi người xung quanh đến hỗ trợ, không được mạo hiểm khi không tin vào khả năng của mình vì có nguy cơ gây đuối nước cho bản thân.

- Khi đưa được nạn nhân vào bờ: Có các tình huống sau:

  • Nếu nạn nhân tím tái, ngưng thở, ngưng tim, mất hoàn toàn các phản xạ: Đặt nạn nhân nằm ngửa trên nền đất cứng, người cấp cứu quỳ một bên, dùng hai bàn tay chồng vào nhau đặt vào nửa dưới xương ức nạn nhân (phía dưới đường ngang qua 2 vú) ép nhanh, mạnh với tần số 100-120 lần/phút, quá trình ép không nhấc tay khỏi thành ngực, ép cho thành ngực lún xuống 1/3 bề dày trước sau. Kết hợp với thổi ngạt: nạn nhân ưỡn cổ, dùng tay hoặc khăn, vải... móc hết dị vật trong họng, miệng, người cấp cứu một tay dùng ngón cái và ngón trỏ bịt chặt 2 lỗ mũi nạn nhân, tay kia đẩy hàm dưới ra trước, hít một hơi thật dài rồi cúi xuống áp chặt vào miệng nạn nhân thổi hết vào. Nếu chỉ có một người cấp cứu thì luân phiên ép tim 30 lần rồi 2 lần thổi ngạt. Nếu có hai người cấp cứu thì cứ ép tim 15 lần rồi 2 lần thổi ngạt. Phải làm liên tục, không được để gián đoạn các thủ thuật này.
  • Nếu nạn nhân ngưng thở nhưng sờ mạch còn đập: Tiến hành thổi ngạt với cách làm như trên, tần số 12-14 lần/ phút ở người lớn và 25-30 lần/ phút ở trẻ em.
  • Nếu nạn nhân còn mạch nhưng chậm, rời rạc, yếu, còn thở nhưng chậm và yếu, nguy cơ ngưng thở ngưng tim: tiến hành ép tim và thổi ngạt như trên.

- Song song với cấp cứu thì cần gọi người hỗ trợ và tìm cách đưa nạn nhân tới cơ sở y tế, trên xe cấp cứu vẫn tiến hành ép tim, thổi ngạt.

- Chú ý các tổn thương phối hợp như gãy tay, chân, vết thương, chấn thương cột sống cổ để sơ cứu đồng thời.

duoinuoc1

 

Kỹ thuật ép tim ngoài lồng ngực và thổi ngạt qua đường miệng

2. Những việc không nên làm:

  • Không nên dốc ngược nạn nhân để nước trong phổi chảy ra, vì thực tế nước vào phổi rất ít.
  • Không xoa dầu, chích lể, xoa bóp tay chân.
  • Không gián đoạn quá trình cấp cứu.
  • Ép tim đủ mạnh và dứt khoát như hướng dẫn, tránh xoa ngực nhẹ nhàng vì sợ đau và gãy xương của nạn nhân.
  • Không nên hốt hoảng để rồi đưa một nạn nhân đã ngưng thở ngưng tim vào bệnh viện mà không sơ cứu gì, vì như đã nói ở trên, tế bào não chỉ chịu được thiếu oxy trong vòng 4 phút, nên sơ cứu tại hiện trường là quan trọng nhất.

 

Lần cập nhật cuối lúc Thứ hai, 15 Tháng 5 2023 10:17

Lựa chọn và sử dụng đúng cách các dụng cụ hít trong các bệnh hô hấp

  • PDF.

Bs Trình Trung Phong - 

1. Giới thiệu

Thuốc sử dụng đường xông-hít ngày càng trở nên phổ biến trong điều trị các bệnh lý hô hấp mạn tính như hen suyễn và bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (BPTNMT) ở cả người lớn và trẻ em. Sử dụng thuốc bằng đường xông-hít giúp đưa thuốc trực tiếp vào đường thở, nơi cần đưa thuốc đến, nên giảm được tác dụng phụ toàn thân của thuốc so với dùng đường chích/uống. Đường xông hít đồng thời cũng giúp thuốc có tác dụng nhanh hơn, điều này rất cần trong những trường hợp cần phải cắt cơn khó thở nhanh chóng khi bệnh nhân lên cơn khó thở.

Không giống như cách dùng thuốc bằng đường uống hay chích mà hiệu quả điều trị chủ yếu phụ thuộc vào thành phần hoá học hay chất lượng của thuốc; hiệu quả điều trị của thuốc dùng đường xông hít ngoài phụ thuộc vào chất lượng của thuốc còn phụ thuộc rất lớn vào khả năng hít thuốc đúng kỹ thuật của bệnh nhân. Do vậy, biết cách hướng dẫn bệnh nhân dùng thuốc đúng kỹ thuật là một khía cạnh then chốt góp phần thành công trong việc quản lý hen và BPTNMT.

binhit

Xem tiếp tại đây

Hạch ác tính vùng cổ

  • PDF.

Bs Lê Trung Nghĩa - 

Các hạch ác tính ở cổ bao gồm di căn và ung thư hạch (lymphoma). Di căn hạch cổ thường gặp ở bệnh nhân ung thư đầu và cổ, và việc đánh giá chúng rất quan trọng vì nó ảnh hưởng đến việc lập kế hoạch điều trị và tiên lượng. Các hạch cổ cũng là một vị trí phổ biến của sự liên quan đến hạch bạch huyết và chẩn đoán chính xác là điều cần thiết vì cách điều trị của nó khác với các nguyên nhân khác gây ra bệnh hạch cổ. Trên siêu âm giúp đánh giá hình thái tốt. Các đặc điểm siêu âm màu giúp xác định các hạch bạch huyết di căn gồm kích thước, hình dạng và cấu ​​trúc bên trong (mất cấu trúc rốn hạch, sự hiện diện của hoại tử trong và vôi hóa). Phù nề mô mềm và nốt sần là những đặc điểm bổ sung được thấy ở các nốt lao hoặc ở các nốt đã được chiếu xạ trước đó. Ngoài ra, theo dõi kích thước và mạch máu của hạch là những tính năng hữu ích trong việc đánh giá đáp ứng điều trị trên bệnh nhân.

hachco

Đánh giá tình trạng hạch là cần thiết ở bệnh nhân ung thư biểu mô đầu cổ vì nó dự đoán tiên lượng và giúp lựa chọn các phương án điều trị. Ở những bệnh nhân bị ung thư biểu mô đầu và cổ đã được chứng minh, sự hiện diện của một hạch di căn một bên làm giảm 50% tỷ lệ sống sót sau 5 năm, trong khi sự hiện diện của các hạch di căn hai bên làm giảm tỷ lệ sống sót sau 5 năm xuống 25%. Các hạch bạch huyết cổ di căn do ung thư biểu mô đầu cổ thường là vị trí cụ thể đối với vị trí của khối u nguyên phát. Do đó, đánh giá sự phân bố của các hạch di căn ở những bệnh nhân không rõ nguyên phát có thể cung cấp manh mối về vị trí của khối u nguyên phát.

Bên cạnh di căn, ung thư hạch (lymphoma) cũng là một bệnh ác tính phổ biến và liên quan đến đầu và cổ tương đối phổ biến. Về mặt lâm sàng, hạch vùng cổ là dạng hạch rất khó phân biệt với các nguyên nhân khác gây nổi hạch kể cả hạch di căn. Khi các lựa chọn điều trị khác nhau, việc xác định chính xác bản chất của các bệnh là điều cần thiết.

Vai trò của siêu âm trong việc đánh giá tình trạng hạch vùng cổ đã được xác định rõ ràng. Nó đặc biệt nhạy so với khám lâm sàng (tương ứng 96,8% và 73,3%) ở bệnh nhân ung thư đầu cổ trước đó có xơ hóa cổ sau xạ trị. Khi kết hợp với tế bào học chọc hút bằng kim nhỏ có hướng dẫn siêu âm, độ đặc hiệu của siêu âm cao tới 93%. Mặc dù chụp cắt lớp vi tính (CT) và chụp cộng hưởng từ (MRI) cũng được sử dụng để đánh giá các hạch bạch huyết vùng cổ, bản chất và cấu ​​trúc bên trong của các hạch bạch huyết nhỏ (<5 mm) có thể không được đánh giá dễ dàng. Ngoài ra, MRI có thể không xác định được vôi hóa nội bào, đây là một tính năng hữu ích trong việc dự đoán các hạch di căn từ ung thư biểu mô nhú của tuyến giáp. Trên CT có cản quang, độ nhạy và độ đặc hiệu được báo cáo trong đánh giá di căn hạch vùng cổ lần lượt là 90,2% và 93,9%. Trên MRI có độ phân giải cao, độ nhạy và độ đặc hiệu khi đánh giá các hạch di căn lần lượt là 86% và 94%, trong khi độ nhạy khi đánh giá các khối u lympho tương ứng là 85% và 95%. Chụp cắt lớp phát xạ Positron (PET) có độ nhạy tương đối thấp hơn (80,3%) và độ đặc hiệu (92,8%) trong đánh giá các hạch di căn, nhưng độ nhạy (91,8%) và độ đặc hiệu (98,9%) cao hơn khi PET / CT được sử dụng. Trong số các phương thức hình ảnh khác nhau, siêu âm có độ nhạy cao nhất trong việc đánh giá các hạch ác tính ở cổ , trong khi PET / CT có độ đặc hiệu cao nhất trong chẩn đoán.

Các vị trí di căn hạch thường gặp ở đầu và cổ là :

hachco2

  • Hầu, thanh quản, thực quản, ung thư biểu mô nhú của tuyến giáp di căn theo chuỗi nội ( I- IV,VI).
  • Các khối u trong khoang miệng di căn đến các vùng dưới hàm và cổ trên, mặc dù ung thư biểu mô của lưỡi có thể làm phát sinh di căn ở cổ dưới( I,II,III)
  • Các ung thư nguyên phát từ vú và phổi, tiêu hóa, sinh dục di căn đến hố thượng đòn và tam giác sau( IV-V)
  • Ung thư biểu mô vòm họng thường lan đến các nút tam giác cổ trên và sau (II- V)

 (Trích dịch từ nguồn National Library of Medicine NCBI)

You are here Tin tức Y học thường thức