• Phone: 0235.3851.429
  • Hotline: 19009095
  • Thông tin:

dieuhanhtructuyen

Ung thư buồng trứng (p.8)

  • PDF.

Bs CK1 Trần Quốc Chiến - Khoa Ung bướu

PHẦN VIII. HÓA TRỊ

BỆNH KHU TRÚ

Nghiên cứu Royal Marsden đã xem xét lại 194 bệnh nhân ung thư biểu mô buồng trứng giai đoạn I không được nhận hóa trị bổ trợ nhưng được theo dõi thường xuyên với thăm khám lâm sàng, CA 125, và CT scan. Với thời gian theo dõi trung bình là 54 tháng, thời gian sống thêm không bệnh 5 năm của bệnh nhân ở giai đoạn IA là 87%; giai đoạn IB, 65%; và giai đoạn IC, 62%.  Thời gian sống thêm toàn bộ 5 năm đối với giai đoạn IA là 93,7%; giai đoạn IB, 92%; và giai đoạn IC, 84%. Người ta đã thấy rằng các yếu tố có liên quan với nguy cơ tái phát tăng lên trong phân tích đa trung tâm bao gồm sự lan tràn ra khỏi buồng trứng, mô học độ 3/ biệt hóa kém, phá vỡ vỏ bao, kết dính chặt, tế bào sáng, khối u không thuộc dạng nang, và dịch rửa màng bụng dương tính.

ungth1

Thử nghiệm đầu tiên tại Hoa Kỳ được thực hiện ở những bệnh nhân có tiên lượng tốt và giai đoạn sớm IA hoặc IB. 92 bệnh nhân được nhận ngẫu nhiên hoặc là melphalan hoặc là không điều trị. Thời gian sống thêm không bệnh 5 năm là 91 so với 98%, lần lượt theo thứ tự. Các tác giả đã kết luận rằng những bệnh nhân có tiên lượng tốt ở giai đoạn sớm không cần điều trị bổ trợ. Thử nghiệm thứ hai bao gồm 141 bệnh nhân giai đoạn I và II và mô học biệt hóa kém. Những bệnh nhân này đã được nhận melphalan so với phosphate (P-32) nội màng bụng thường xuyên. Thời gian sống thêm toàn bộ 5 năm là 80% cho cả hai nhánh. Thời gian sống thêm toàn bộ 5 năm là 81% (nhánh melphalan) so với 78% (nhánh P-32) không có ý nghĩa thống kê. Sau khi phân tích đa trung tâm, người ta đã kết luận rằng khối u tế bào sáng và độ mô học thì có liên quan tới kết quả điều trị, với việc điều trị bổ trợ P-32 cho những bệnh nhân có nguy cơ cao được ưa thích hơn.

Gruppo Interregionale Collaboration in Ginecologia Oncologica (GICOG) đã có hai thử nghiệm ngẫu nhiên so sánh hóa trị bổ trợ cisplatin (CDDP)  với không điều trị và CDDP với P-32. Toàn bộ, có 271 bệnh nhân ung thư buồng trứng giai đoạn I sau phẫu thuật triệt căn. Ở thử nghiệm đầu tiên, bệnh nhân được nhận ngẫu nhiên CDDP so với không điều trị. Thời gian sống thêm không bệnh 5 năm là 65% ở nhánh không điều trị và 83% ở nhánh CDDP; thời gian sống thêm toàn bộ 5 năm là 82% ở nhánh không điều trị và 88% ở nhánh CDDP. Thử nghiệm thứ hai có 161 bệnh nhân nhận ngẫu nhiên CDDP so với P-32. Thời gian sống thêm không bệnh 5 năm là 65% ở nhánh P-32 và 85% ở nhánh CDDP (p­₌0,008); thời gian sống thêm toàn bộ 5 năm là 79% ở nhánh P-32 và 81% ở nhánh CDDP (p­₌0,354). Cả hai thử nghiệm đều bị chỉ trích vì có quá ít bệnh nhân, vì vậy đưa đến kết quả số liệu thống kê thấp, và liều của CDDP được xem xét dưới tối đa.

Tại cùng thời điểm đó, thử nghiệm Norwegian với bệnh nhân được nhận ngẫu nhiên CDDP so với P-32 hoặc xạ trị toàn bụng (WAR- whole abdominal radiotherapy) như là điều trị bổ trợ (N₌347). Bệnh nhân ung thư biểu mô buồng trứng đã được tích lũy từ năm 1982 đến 1988 (bao gồm một vài bệnh nhân giai đoạn III theo FIGO). CDDP được cho với liều 50mg/m2 mỗi 3 tuần x 6 chu kỳ (N₌169), P-32 hoặc WAR (N₌171, WAR, N₌28), hoặc WAR và xạ trị chậu bụng. Trường chiếu trước sau nhận 2200cGy ở 20 bệnh nhân và 11 bệnh nhân nhận 2200cGy vào khung chậu. Thời gian sống thêm không bệnh 5 năm ở những bệnh nhân nhận P-32 là 81%, trong khi ở bệnh nhân nhận CDDP là 75% (P₌0,57NS). Thời gian sống thêm toàn bộ 5 năm đối với P-32 là 83%; và đối với CDDP là 81%(P₌0,6NS). Người ta đã kết luận rằng CDDP phải là điều trị chuẩn với quan điểm độc tính thấp hơn của nó so với P-32.

Thử nghiệm GOG 95 đã nghiên cứu giai đoạn IC và II và giai đoạn IA và IB biệt hóa kém. 205 bệnh nhân được đánh giá đã nhận ngẫu nhiên P-32 nội màng bụng (N₌98) so với cyclophosphamide (1000mg/m2 mỗi 21 ngày cho 3 chu kỳ) và cisplatin 100mg/m2 (mỗi 21 ngày cho 3 chu kỳ) (N₌107) (CP). Thời gian sống thêm không bệnh 5 năm đối với P-32 là 66%, trong khi với CP là 77% (p₌0,08), với 31% giảm thời gian bệnh tiến triển. Thời gian sống thêm toàn bộ 5 năm đối với P-32 là 76%; đối với CP là 84% (không có ý nghĩa thống kê). Người ta đã kết luận rằng mặc dù không có sự khác biệt thống kê giữa 2 nhóm, CP được đề nghị như là phác đồ điều trị chuẩn bởi do có khoảng nghỉ không bệnh tốt hơn. Thử nghiệm quốc tế lớn nhất, ACTION và ICON, ở ung thư buồng trứng giai đoạn sớm đã được báo cáo vào năm 2003. Từ giữa tháng 11 năm 1990 đến tháng 1 năm 2000, tổng số 925 bệnh nhân đã được phẫu thuật với ung thư buồng trứng giai đoạn sớm được nhận ngẫu nhiên hóa trị bổ trợ nền platinum (N₌465) hoặc quan sát (N₌460) cho đến khi hóa trị được chỉ định. Khi thử nghiệm ACTION (Adjuvant Chemotherapy in Ovarian Neoplasm) được phân tích đơn độc, sống thêm toàn bộ không có ý nghĩa và lợi ích sống thêm không tái phát bị hạn chế ở những bệnh nhân được phẫu thuật giảm khối dưới tối đa. Tuy nhiên, khi tất cả bệnh nhân ở thử nghiệm ICON (International Collaborative Ovarian Neoplasm) và ở thử nghiệm ACTION được kết hợp lại, thời gian sống thêm toàn bộ 5 năm là 82% ở nhánh hóa trị và 74% ở nhánh quan sát. Thời gian sống thêm không tái phát 5 năm cũng tốt hơn ở nhánh hóa trị so với nhánh quan sát. Cả hai kết quả này đều có ý nghĩa thống kê. Kết luận, người ta đã đồng thuận rằng những bệnh nhân ung thư buồng trứng giai đoạn sớm cũng có thể có lợi với hóa trị bổ trợ.

Gần đây hơn, một thử nghiệm lâm sàng bao gồm những bệnh nhân với tình trạng bệnh còn giới hạn đã được hoàn tất. Mục đích là để xác định có hay không việc hóa trị 6 chu kỳ carboplatin và paclitaxel sẽ có tỉ lệ tái phát thấp hơn có ý nghĩa so với 3 chu kỳ với cùng tác nhân sau phẫu thuật chẩn đoán giai đoạn ở những bệnh nhân ung thư biểu mô buồng trứng giai đoạn IA có độ mô học (grade) 3, giai đoạn IB grade 3, giai đoạn IC, và giai đoạn II đã được cắt bỏ hoàn toàn. Mục tiêu thứ 2 là để so sánh độc tính của hai cách thức điều trị. Sau phẫu thuật mở bụng đánh giá giai đoạn, phẫu thuật cắt toàn bộ tử cung qua ngã bụng (TAH- Total Adominal Hysterectomy), và phẫu thuật cắt vòi buồng trứng hai bên (BSO- Bilateral Salpingo- Oophorectomy), 321 bệnh nhân đã được nhận ngẫu nhiên 3 hoặc 6 chu kỳ paclitaxel 175 mg/m2 truyền tĩnh mạch trên 3 giờ tiếp sau đó là carboplatin 7.5 AUC (area under the curve- vùng dưới đường cong) truyền tĩnh mạch trên 30 phút. Các chu kỳ được lặp lại mỗi 21 ngày. Với 70% bệnh nhân ở giai đoạn I. Ở nhánh 3 chu kỳ chuẩn, ước đoán khả năng ung thư tái phát trong 5 năm là 27% so với 19% ở nhánh 6 chu kỳ. Nguy cơ tái phát là 33% thấp hơn ở những bệnh nhân được điều trị 6 chu kỳ hóa trị, với sai số tương đối là 0.672. Nếu so sánh kết quả điều trị ở những bệnh nhân được xem là không thích hợp do việc đánh giá giai đoạn phẫu thuật không hoàn tất, tỉ lệ tái phát là 24% ít hơn ở nhánh hóa trị 6 chu kỳ, với sai số tương đối là 0.762. Người ta đã kết luận rằng việc thêm vào 3 chu kỳ carboplatin và paclitaxel đối với 3 chu kỳ chuẩn không có ý nghĩa làm thay đổi tỉ lệ tái phát ở những bệnh nhân ung thư biểu mô buồng trứng giai đoạn sớm. Hơn nữa, hóa trị 6 chu kỳ gây ra độc tính nhiều hơn có ý nghĩa so với hóa trị 3 chu kỳ

Nguồn: The MD Anderson manual of medical oncology - Second edition


Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Lần cập nhật cuối lúc Chủ nhật, 02 Tháng 10 2016 15:50

You are here Đào tạo Tập san Y học Ung thư buồng trứng (p.8)