Bs CK1 Trần Quốc Chiến - Khoa Ung bướu
PHẦN VI. BỆNH HỌC, ĐÁNH GIÁ GIAI ĐOẠN VÀ CHẨN ĐOÁN
BỆNH HỌC
Mô đệm và biểu mô buồng trứng có cùng nguồn gốc từ trung phôi bì. Lớp lót biểu mô buồng trứng và màng bụng giống với biểu mô khoang cơ thể phôi là nguồn gốc của vòi trứng, tử cung, cổ tử cung và ống Muller và từ đó xấp xỉ 75% các ung thư buồng trứng nảy sinh. Các khối u biểu mô buồng trứng chứa số lượng và hoạt độ khác nhau trung mô tuyến sinh dục và tất cả đều có khả năng sản xuất hormone. Chúng được phân loại theo hình thái và tập tính của tế bào như lành tính, giáp biên ác hoặc tiềm năng ác tính thấp, hoặc ác tính. Tiêu chuẩn chẩn đoán các khối u giáp biên ác là như sau:
- Sự tân sinh biểu mô có dạng nhú hoặc giả phân tầng.
- Nhân không điển hình và tăng hoạt động phân chia.
- Không có xâm nhập mô đệm.
Khoảng 20 đến 25% các khối u giáp biên ác thực sự lan tràn vượt quá buồng trứng, mặc dầu hiếm có mẫu vi xâm nhập đã được báo cáo; tiên lượng đối với các khối u này được xác định bởi bản chất của các mô di căn.
Các loại tế bào chủ yếu của các khối u biểu mô là dạng thanh dịch, dạng nhầy, nội mạc tử cung, tế bào sáng, chuyển tiếp và không biệt hóa. Tầm quan trọng của việc nhận ra các phân nhóm biểu mô khác nhau nằm trong phạm vi các tập tính sinh học của chúng, khả năng lan tràn, và kết quả của sự biến đổi về tiên lượng và điều trị. Tuy nhiên, đối với ung thư biểu mô xâm nhập, sự đồng thuận hiện nay là loại mô học có ý nghĩa tiên lượng hạn chế so với giai đoạn lâm sàng, mức độ bệnh tồn lưu, và độ mô học.
CÁC KHỐI U DẠNG THANH DỊCH
Các khối u dạng thanh dịch đại diện cho 50% các khối u biểu mô buồng trứng. Trong các khối u này, 10% là các khối u dạng thanh dịch giáp biên ác và 50% xảy ra trước tuổi 40. Thời gian sống thêm 5 năm là 80 đến 90%. Các khối u sạn bị vôi hóa ác tính được thấy trong 80% các ung thư biểu mô dạng thanh dịch.
CÁC KHỐI U DẠNG NHẦY
Các khối u dạng nhầy chiếm 8 đến 10% các khối u biểu mô buồng trứng. Các khối u này có thể đạt được kích thước khổng lồ, lấp đầy hoàn toàn khoang ổ bụng. Các khối u dạng nhầy ở cả hai bên buồng trứng gặp trong 8 đến 10% trường hợp, và các tổn thương dạng nhầy ở nội buồng trứng gặp trong 95 đến 98% trường hợp. U niêm giả màng bụng là tổn thương thứ phát thường gặp nhất của ung thư biểu mô buồng trứng dạng nhầy.
CÁC KHỐI U DẠNG NỘI MẠC TỬ CUNG
Tính toàn bộ, có khoảng 6 đến 8% các khối u buồng trứng tương đồng với ung thư biểu mô tuyến nội mạc tử cung, và cả hai loại xảy ra song song như là các khối u nguyên phát đồng thời trong 30% trường hợp. Việc nhận ra tình trạng bệnh ở nhiều điểm có tính chất quan trọng bởi do những bệnh nhân có tình trạng bệnh di căn từ tử cung đến buồng trứng có tỷ lệ sống thêm 5 năm từ 30 đến 40%. ở những bệnh nhân có tình trạng bệnh xảy ra nhiều tiêu điểm đồng thời có tỷ lệ sống thêm 5 năm từ 75 đến 80%. Lạc nội mạc tử cung xảy ra đồng thời hiện diện trong 10% trường hợp. Tiềm năng ác tính của lạc nội mạc tử cung là rất thấp, mặc dầu một sự biến đổi từ lành tính thành biểu mô ác tính có thể được nhận thấy.
Ung thư biểu mô tuyến có dị sản vảy biểu lộ lành tính có tiên lượng tốt. Ngược lại, ung thư biểu mô tuyến vảy hỗn hợp (biểu mô tuyến và biểu mô vảy ác tính) có tiên lượng rất xấu.
UNG THƯ BIỂU MÔ TẾ BÀO SÁNG
Ung thư biểu mô tế bào sáng xảy ra trong 5% các trường hợp và cũng có thể có liên quan với ung thư dạng lạc nội và nội mạc tử cung. Thông thường loại tế bào sáng cùng tồn tại với các loại tế bào khác. Loại này đôi khi có liên quan với tăng calci huyết hoặc sốt cao. Các khối u này có tiên lượng xấu hơn các loại khối u khác.
CÁC KHỐI U BRENNER
Các khối u Brenner có thể là ác tính, giáp biên, hoặc lành tính. Các khối u này thường hiếm gặp.
CÁC KHỐI U TẾ BÀO CHUYỂN TIẾP
Một vài ung thư biểu mô buồng trứng nguyên phát tương đồng với ung thư biểu mô tế bào chuyển tiếp của bàng quang niệu quản mà không thể công nhận là khối u Brenner. Những loại ung thư biểu mô buồng trứng mà có hơn 50% các khối u tế bào chuyển tiếp thì nhạy với hóa trị hơn và có tiên lượng tốt hơn.
UNG THƯ BIỂU MÔ KHÔNG BIỆT HÓA
Ung thư biểu mô không biệt hóa chiếm 17% các khối u biểu mô buồng trứng; tiên lượng đối với những bệnh nhân có các loại khối u này là kém.
UNG THƯ BIỂU MÔ MÀNG BỤNG NGUYÊN PHÁT
Ung thư biểu mô màng bụng nguyên phát được đặc trưng bởi ung thư di căn toàn thân với biểu mô màng bụng là nguồn nguyên phát. Buồng trứng không có liên quan với u, hoặc chỉ bề mặt của chúng là có liên quan. Những phụ nữ có nhiều khối u có thể có một tiền sử xa của việc cắt buồng trứng.
PHÂN ĐỘ MÔ HỌC
Có hai hệ thống phân độ mô học thường được sử dụng. Hệ thống kiểu mẫu chú ý đến diện mạo vi thể chung của tổn thương. Các tổn thương thay đổi từ độ 1 (biệt hóa tốt) đến độ 2 (biệt hóa trung bình và dạng tuyến chiếm ưu thế) đến độ 3 (biệt hóa kém và dạng đặc chiếm ưu thế). Hệ thống phân độ Broder xếp lại các tổn thương từ độ 1 đến 4, phụ thuộc vào những đặc điểm của tế bào và nhân của các tổn thương. Hệ thống này thừa nhận độ 4 là tổn thương không biệt hóa. Các nhà bệnh học thường sử dụng kết hợp cả hai hệ thống. Giá trị của độ mô học như là một biến số tiên lượng độc lập đã không được làm sáng tỏ một cách đầy đủ. Một số báo cáo tuyên bố rằng độ mô học u có thể có giá trị trong ung thư buồng trứng giai đoạn sớm nhưng giá trị của nó lại giảm sút ở những bệnh nhân có giai đoạn bệnh tiến triển.
ĐÁNH GIÁ GIAI ĐOẠN
Đánh giá giai đoạn chính xác có tính quyết định cho sự thành công của phẫu thuật và điều trị bổ trợ. Đánh giá giai đoạn ung thư buồng trứng dựa vào những phát hiện về đại thể và bệnh học của việc đánh giá bằng phẫu thuật ban đầu. Phân loại FIGO sử dụng các vị trí và phạm vi lan rộng của bệnh, bao gồm cả sự phá vỡ vỏ bao và cổ trướng, để phân chia ung thư buồng trứng thành 4 giai đoạn. Phân loại giai đoạn FIGO đươc tóm lược trong bảng 28-3. Các phương thức được yêu cầu để chứng thực giai đoạn được mô tả sau trong một chương.
Bảng 28-3. Phân loại giai đoạn theo FIGO
CHẨN ĐOÁN
Các triệu chứng khách quan của ung thư biểu mô buồng trứng thì không đặc hiệu và bao gồm một mass ở khung chậu, cổ trướng, dịch màng phổi, và đôi khi là hạch thượng đòn.. Bệnh nhân ung thư buồng trứng đôi khi biểu hiện các kiểu khác nhau của các tình trạng cận ung thư, chẳng hạn như tăng calci huyết trung gian thể dịch (tế bào sáng, tế bào nhỏ), thoái hóa tiểu não (có liên quan với các kháng thể tế bào purkinje), sự xuất hiện đột ngột chứng dày sừng tiết bã nhờn (một triệu chứng của hội chứng Leser-Trelat), hoặc đông máu nội mạch mạn tính (hội chứng Trousseau). Đánh giá trước mổ phải bao gồm thụt bari, cắt lớp vi tính bụng/chậu, sinh hóa máu, x- quang ngực, và đo CA 125. Nếu có triệu chứng tắc nghẽn, việc chụp một loạt hình ảnh đường tiêu hóa trên có thể được chỉ định. Chụp nhũ ảnh có thể có ích trong việc loại trừ ung thư vú di căn. Cổ trướng và dịch màng phổi phải được lấy ra và khảo sát.
- 27/09/2016 08:08 - Cập nhật tiếp cận chẩn đoán tế bào học dịch (tt)
- 26/09/2016 17:21 - Chống đông trong lọc máu liên tục (p.2)
- 26/09/2016 16:32 - Nạo túi lợi
- 25/09/2016 07:40 - Nhiễm trùng huyết và sốc nhiễm trùng
- 25/09/2016 07:10 - Ung thư buồng trứng (P.7)
- 23/09/2016 05:02 - Chống đông trong lọc máu liên tục (P1.)
- 21/09/2016 18:21 - Ung thư buồng trứng (P.5)
- 21/09/2016 17:14 - Viêm gan cấp
- 21/09/2016 16:49 - Các phương pháp khâu gân
- 19/09/2016 19:23 - Điều trị kháng insulin trong bệnh thận mạn