CN Nguyễn Minh Nhựt - Khoa CĐHA
Phình mạch là sự giãn khu trú, liên quan tất cả các lớp của thành mạch máu. Các lớp của thành mạch máu giãn đồng tâm, giãn toàn bộ thành tạo phình mạch dạng hình thoi hay chỉ giãn khu trú một phần của thành mạch tạo hình túi.
Nguyên nhân
Khoảng 80 % nguyên nhân phình mạch do xơ vữa thành mạch, các bệnh lý mạch máu do giang mai, nấm, chấn thương ít gặp hơn. Phình do giang mai hay gặp đoạn trên thận chiếm tỷ lệ 90 %. Phình mạch đoạn dưới thận hay lan xuống đoạn chậu, đóng vôi thành mạch hay gặp chiếm tỷ lệ khoảng 70 %. Phình mạch bóc tách ít gặp ở đoạn bụng, thường gặp tổn thương ở ngực. Phình mạch do nấm, nhiễm khuẩn có thể xãy ra trên mạch máu bình thường hay xơ vữa thành mạch.
Hình ảnh phình mạch trên phim CT
Kích thước phình mạch càng lớn nguy cơ vỡ càng cao.
Đường kính ngoài mạch máu đo được chính xác trên phim CT. Bình thường mạch máu hẹp dần từ trên xuống dưới. Sự hẹp dần bất thường này gọi là giãn mạch máu. Phình động mạch chủ bụng khi đường kính lòng mạch lớn hơn hoặc bằng 3 cm. Phẩu thuật chỉ định khi đường kính lòng mạch lớn trên 5 cm. Tuy nhiên chỉ định phẫu thuật còn tuỳ thuộc vào diễn biến lâm sàng và tình trạng bệnh nhân.
Trên phim CT các thay đổi xơ vữa mạch máu biểu hiện đóng vôi thành mạch , huyết khối đóng quanh thành mạch, dạng viền, hình liềm. Phình mạch lớn lâu ngày có thể bào mòn xương sống lân cận. Sau tiêm thuốc cản quang lòng mạch thấy rõ hơn do ngấm thuốc cản quang.
Hình ảnh vỡ phình mạch: Khi vỡ phình mạch mà bờ ngoài thành mạch không thấy rõ do lớp mỡ bám quanh mạch máu. Tùy vị trí vỡ phình mạch, máu tụ có thể lan vào khoang trước hay sau thận, quanh thận, có thể đẩy các cơ quan. Vị trí máu chảy đôi khi thấy rõ hơn sau khi tiêm nhanh thuốc cản quang. Trường hợp mạn tính tạo bao xơ quanh khối máu tụ quanh động mạch còn gọi là giả phình mạch.
Phình mạch dạng nấm hiếm gặp thường có hình túi. Dấu hiệu khí trong lòng thành mạch là dấu hiệu điển hình để chẩn đoán phình mạch nhưng không phải lúc nào cũng gặp. Đóng vôi thành mạch có thể ít gặp do viêm nhiễm lân cận mạch máu như viêm xương tủy xương, áp xe .. thường là nguyên nhân của phình mạch dạng này.
Phình mạch bóc tách thường bắt đầu ở vùng ngực lan xuống sau tiêm thuốc cản quang, lá nội mạc, lòng thật và lòng giả của mạch máu rõ hơn.
Phình bóc tách ĐM chủ ngực
Phình mạch sau phẩu thuật có thể đánh giá trên CT. Các mảnh ghép hình ống, Y tùy vào chất liệu cản quang khác nhau, nhưng thường có đậm độ cao hơn. Khi nối tận – tận, vị trí nối thường phát hiện dễ do có ít dịch hình liềm xung quanh túi phình mạch. Khi nối tận bên, có huyết khối đoạn xa động mạch chủ và đoạn động mạch chậu cần nối.
Các biến chứng sau phẫu thuật bao gồm:
Chảy máu vùng nối tạo thành giả phình quanh mạch, huyết khối gây tắc nghẽn và nhiễm trùng mảnh nối. Hình ảnh đặc trưng cho nhiễm khuẩn là hình ảnh dịch quanh mảnh nối. Có thể phát triển phình mạch tại vị trí nối. Ngoài ra, dò động mạch với ruột cũng có thể gặp.
Phình mạch chấn thương do chấn thương bụng kín hay xuyên thấu tổn thương động mạch, làm rách thành mạch, tụ máu quang động mạch .
Phình ĐM chủ bụng kèm huyết khối
Phinh ĐM chủ bụng (Hình Coronal)
Phình ĐM chủ bụng (Hình 3D)
Nguồn: Phình động mạch chủ bụng trên CT Scanner, Phạm Ngọc Hoa - Lê Văn Phước, NXB Y học, 2009
- 17/04/2014 09:11 - Hạ natri huyết tương ở bệnh nhân tai biến mạch máu…
- 17/04/2014 08:52 - Viêm quanh khớp vai và thực hành trong khám - điều…
- 15/04/2014 17:37 - Điều trị viêm quanh khớp vai
- 15/04/2014 17:13 - Chương trình tập phục hồi chức năng sau tái tạo dâ…
- 11/04/2014 09:26 - Xét nghiệm men Cholinesterase trong máu
- 10/04/2014 19:16 - 9 điều y huấn cách ngôn của Hải Thượng Lãn Ông
- 08/04/2014 14:18 - Rối loạn đông máu trong bệnh Willebrand
- 06/04/2014 18:13 - Sàng lọc và chẩn đoán bệnh đái tháo đường type 2
- 02/04/2014 12:40 - Suy nghĩ về y đức trong sinh hoạt hàng ngày ở bệnh…
- 02/04/2014 08:05 - Tác nhân gây bệnh trên dụng cụ y tế không được khử…