Bất cập trong chẩn đoán viêm khớp cột sống

Bs Trình Trung Phong - 

ĐIỂM CHÍNH

MỞ ĐẦU

Viêm khớp cột sống (SpA) có đặc điểm điểm lâm sàng và dấu ấn di truyền chồng lấp với các bệnh lý viêm khớp khác. Dựa vào các triệu chứng nổi bật, bệnh nhân SpA được chia thành 2 nhóm chính: SpA thể trục (axSpA) và SpA thể ngoại biên (pSpA). Viêm cột sống dính khớp (AS) là một dạng của bệnh lý axSpA kéo dài, được đặc trưng bởi tình trạng cứng cột sống và đau lưng do viêm (IBP) [1, 2]. Việc bác sĩ đa khoa không có đủ hiểu biết để phân biệt IBP và đau lưng cơ học (MBP) thường dẫn đến tình trạng trì hoãn chẩn đoán AS (có trường hợp trì hoãn 7 năm kể từ khi khởi phát triệu chứng). Trì hoãn chẩn đoán cũng là trở ngại chính trong việc điều trị AS thành công [3, 4].

CHẨN ĐOÁN VIÊM CỘT SỐNG DÍNH KHỚP ( AS)

Tiêu chí trong chuẩn đoán AS

Tuy nhiên, phạm vi áp dụng các tiêu chí đánh giá, chẩn đoán hình ảnh và chỉ số xét nghiệm trong chẩn đoán AS của bác sĩ đa khoa vẫn chưa được làm rõ [3]. Từ đó, câu hỏi nghiên cứu về khả năng của bác sĩ đa khoa trong việc xác định IBP ở bệnh nhân có biểu hiện đau lưng, cân nhắc các biểu hiện khác của SpA, nhận biết tính hữu hiệu của các chỉ số xét nghiệm trong chẩn đoán AS, chiến lược kiểm soát và nhu cầu chưa được đáp ứng của các bác sĩ đa khoa đã được tiến hành [3].

Kết quả

Đau lưng do viêm (IBP)

8 đặc trưng lâm sàng của IBP bao gồm [3]:

Tuy nhiên, chỉ có 5% bác sĩ đa khoa có thể nhận diện được cả 8 đặc trưng lâm sàng kể trên, 78% bác sĩ đa kha xác nhận được 4 – 8 đặc trưng và 17% xác nhận được ít hơn 4 đặc trưng. 17% bác sĩ không cân nhắc đến một số biểu hiện khác của SpA (vd: vảy nến, viêm màng bồ đào, nhiễm trùng ruột/đường niệu – sinh dục, viêm khớp bám gân và viêm ngón), trong khi chỉ có 6% bác sĩ cân nhắc đến tất cả các yếu tố này [3].

Quan điểm trong thực hành

Nhiều bác sĩ cho rằng kết quả xét ngiệm HLA – B27 dương tính là mấu chốt trong việc chẩn đoán AS, 17,7% bác sĩ chưa bao giờ có ý định kiểm tra HLA – B27, 32.2% bác sĩ đôi khi kiểm tra và 32.7% bác sĩ hiếm khi kiểm tra chỉ số này trong thực hành [3]. 32% bác sĩ tiếp cận điều trị theo hướng vật lý trị liệu (thời gian chờ đợi cho phiên trị liệu đầu tiên > 2 tháng) và chỉ 2% bác sĩ sẵn sàng áp dụng các biện pháp vật lý trị liệu cho bệnh nhân (thời gian chờ đợi > 2 tuần).

NSAID là lựa chọn đầu tay trong điều trị IBP đối với 93% bác sĩ đa khoa, chỉ có 26% bác sĩ lựa chọn thuốc ức chế TNF, trong khi số bác sĩ còn lại không biết đến các lựa chọn điều trị hiện có [3].

Nhu cầu của các bác sĩ

BÀN LUẬN

IBP là biểu hiện lâm sàng chính ở đa số bệnh nhân mắc axSpA [2]. Khả năng mắc axSpA mà không có biểu hiện IBP là < 2%. Do vậy, IBP ở bệnh nhân có biểu hiện đau vùng thắt lưng là tiêu chí lý tưởng để xác định bệnh nhân SpA. Đa số bệnh nhân bị trì hoãn chẩn đoán AS vì nhiều lý do bao gồm triệu chứng nhẹ – trung bình ở thời điểm ban đầu, thiếu chẩn đoán xác định, không phân biệt được IBP và MBP… [1, 3]. Sự khác nhau biệt về quan điểm và cách tiếp cận chẩn đoán, kiểm soát của các bác sĩ đa khoa là thách thức chính trong việc điều trị AS hiệu quả. Giáo dục về việc chăm sóc ban đầu và quy trình chẩn đoán có thể cải thiện mức độ thành công trong điều trị AS [3].

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Van Onna M, Gorter S, van Meerendonk A, van Tubergen A. General practitioners’ perceptions of their ability to identify and refer patients with suspected axial spondyloarthritis: a qualitative study. The Journal of Rheumatology. 2014 May 1;41(5):897-901.
  2. Braun A, Saracbasi E, Grifka J, Schnitker J, Braun J. Identifying patients with axial spondyloarthritis in primary care: how useful are items indicative of inflammatory back pain? Annals of the rheumatic diseases. 2011 Oct 1;70(10):1782-7.
  3. Jois RN, Macgregor AJ, Gaffney K. Recognition of inflammatory back pain and ankylosing spondylitis in primary care. Rheumatology. 2008 Sep 1;47(9):1364-6.
  4. Haroon M, FitzGerald O. Improving recognition of spondyloarthropathy in primary care: an unmet need. Annals of the Rheumatic Diseases. 2016 Apr 1;75(4):e19.

Tin mới hơn:
Tin cũ hơn: