Hải Thượng Lãn Ông – Lê Hữu Trác nhà đại danh y dân tộc, nhà khoa học lớn, đồng thời là nhà tư tưởng, nhà văn lỗi lạc của nước ta ở thế kỷ thứ XVIII

Nhân ngày mất của Hải Thượng Lãn Ông - Lê Hữu Trác (ngày rằm tháng giêng năm Tân Hợi 1791) xin giới thiệu vài nét về ông.

Ths Nguyễn Văn Tánh - Khoa YHCT

Hải Thượng Lãn Ông tên thật là Lê Hữu Trác, quê tại thôn Văn xá, làng Lưu Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, tỉnh Hải Dương (nay là xã Hoàng Hữu Nam, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên).

Ông xuất thân từ một gia đình (ông, cha, chú, bác, anh, em) đều học giỏi, đỗ cao, làm quan to của thời vua Lê chúa Trịnh. Cha là Lê Hữu Mưu đỗ đệ tam giáp tiến sĩ và làm quan dưới triều Lê Dụ Tôn tới bậc thượng thư. Mẹ là Bùi thị Thưởng, quê ở xứ Bầu thượng, xã Tình Diệm, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh.

Biệt hiệu Hải Thượng là do hai chữ đầu tên tỉnh (Hải Dương) và phủ (Thượng Hồng), Hải Thượng Lãn Ông có nghĩa là ông lười ở Hải Thượng (lười với công danh, phú quý).

haithuong

Hải Thượng Lãn Ông - Lê Hữu Trác (1720-1791)

Lúc nhỏ, ông theo cha lưu học ở thủ đô Thăng Long. Ngày còn đi học, ông đã nổi tiếng là học trò hay chữ, và đã thi vào tam trường. Năm 19 tuổi, cha mất sớm nên ông phải thôi học về nhà chịu tang. Lúc này khắp nơi nghĩa quân nổi lên chống lại chính sách hà khắc của chúa Trịnh, nhân dân rất khổ sở, nghĩa quân lại nổi ngay ở làng bên cạnh quê hương, ông đành xếp bút nghiên theo nghiệp kiếm cung. Nhưng để chuẩn bị cho nghiệp kiếm cung, ông đã tìm gặp một ẩn sĩ họ Vũ ở làng Đặng Xá, huyện Hoài An rất giỏi môn Thiên nhân (môn học về thiên văn, địa lý, bày binh bố trận, bói toán … ) dạy cho thuật âm dương. Sau vài năm nghiên cứu thuật âm dương, ông mới đeo gươm tòng quân. Ông đã viết về thời kỳ này của đời mình: “…Tôi nghiên cứu thuật âm dương trong vòng vài năm, cũng biết được đại khái, mới tòng quân để thử sức học của mình. Vượt qua bao phen nguy hiểm, tôi cũng được bình yên. Những kế hoạch trù tính trong quân cơ phần nhiều đều phù hợp…”. Tuy nhiên, đây là công việc không hợp ý ông. Sau khi được tin người anh mất, ông xin ra khỏi quân ngũ về Hương Sơn.

Về Hương Sơn không lâu ông bị ốm nặng trong vòng vài ba năm chữa khắp nơi không khỏi. Chính trận ốm này là bước ngoặc quan trọng với cuộc đời Lê Hữu Trác và nghề thuốc Việt Nam. Phải qua hơn một năm chữa trị ở nhà thầy thuốc Trần Độc ở xã Nam Trung, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, ông mới khỏi bệnh. Trong thời gian nằm chữa bệnh tại đây, ông đã mượn đọc bộ sách thuốc Phùng thị, phần lớn ông đều hiểu thấu, thầy thuốc Trần Độc lấy làm lạ và đã có ý muốn truyền đạt nghề mình cho Lê Hữu Trác. Mặc dù lúc này ông đã phát hiện thấy trên đời còn có một công việc rất quan trọng đối với con người là bảo vệ sức khỏe, chữa bệnh cứu người, nhưng cũng chưa quyết chí học thuốc.

Đến khi ông 30 tuổi, sức khỏe đã trở lại, tướng của chúa Trịnh cho người tới mời ông trở về quân ngũ, ông cố ý xin từ và lúc này mới quyết chí học thuốc. Và từ đấy Lê Hữu Trác lấy biệt hiệu là Hải Thượng Lãn Ông.

Vì nơi ở của Hải thượng rất hẻo lánh, trên không có thầy giỏi để học, dưới không có bạn hiền giúp cho, Hải Thượng phải tự học là chính. Để việc học tập có kết quả hơn, Hải Thượng đã làm bạn với một thầy thuốc họ Trần ở làng Đỗ Xá để cùng nhau trao đổi những kiến thức thu thập được trong khi đọc sách.

Do kiến thức rộng, chẩn bệnh kê đơn thận trọng cho nên Hải Thượng Lãn Ông đã chữa khỏi nhiều trường hợp khó mà người khác chữa không khỏi, tên tuổi ông lan nhanh khắp nơi, tới tận thủ đô Thăng Long. Trong thời kỳ này, cùng với việc chữa bệnh ông còn mở trường đào tạo thầy thuốc, người quanh vùng và nơi xa nghe tiếng đều tìm đến học. Ông còn tổ chức ra hội y, nhằm đoàn kết những người đã học xong ra làm nghề và để có cơ sở cho họ liên hệ trao đổi học hỏi nhau. Vừa chữa bệnh, vừa dạy học, Hải Thượng Lãn Ông còn vừa biên soạn sách.

Năm 62 tuổi, Hải Thượng Lãn Ông được chúa Trịnh Sâm triệu ra thủ đô Thăng long để chữa bệnh cho con là Trịnh Cán. Trong Thượng kinh ký sự (kể chuyện ra thủ đô) ông tâm sự: “… Bấy giờ tôi bức rứt không biết đến chừng nào, suốt đêm không ngủ. Tôi tự nghĩ: mình lúc còn trẻ mài gươm đọc sách, rồi nay đây mai đó, trong 15 năm đã không làm nên công trạng gì. Nay đã vứt bỏ công danh về ẩn ở núi Hương Sơn, dựng lều, nuôi mẹ, đọc sách mong tiêu dao trong vườn đạo lý của Hoàng Đế, Kỳ Bá hai tổ sư của Đông y tự lấy việc gìn giữ cho mình, cứu giúp người là đắc sách. Ai ngờ nay lại khổ về cái hư danh. Nhưng mình đã dày công nghiên cứu y học trong vòng 30 năm, soạn được một bộ Tâm Lĩnh không dám truyền thụ riêng cho ai, chỉ muốn đem ra công bố cho mọi người cùng biết. Nhưng việc thì nặng, sức lại mỏng, khó mà làm được. Quỉ thần thấu hiểu lòng mình, chuyến đi có chỗ may mắn đây cũng chưa biết chừng”.

Đến thủ đô, Hải Thượng được đưa đến khám bệnh ngay cho Trịnh Cán, nhưng đơn thuốc kê lên bị các thầy thuốc khác trong phủ chúa gièm pha và không được dùng. Sách thuốc cũng chẳng tìm được ai chịu trách nhiệm cho in. Nhưng cũng chính trong chuyến đi này, Hải Thượng đã rất vui mừng được biết sách thuốc của mình biên soạn không những đã được học trò ghi chép dùng tại chỗ mà còn được đưa đi rất xa tới tận thủ đô và có người nhờ học sách thuốc của mình mà đã trở thành thầy thuốc giỏi ở thủ đô nên đã lập bàn thờ, thờ sống Hải Thượng để tỏ lòng nhớ ơn.

Cuối năm đó (1782) Hải Thượng Lãn Ông trở lại Hương Sơn, tiếp tục dạy học, biên soạn thêm một số tập trong toàn bộ tác phẩm “Y Tông Tâm Lĩnh” cho đến khi ông mất. Nhân dân táng mộ ông ở chân núi Minh Từ, khe Nước Cạn, cách thị trấn phố Châu, huyện Hương Sơn 4 km, hiện nay vẫn còn.

Hải Thượng Lãn Ông được nhân dân đương thời chú ý và trọng vọng do tài chữa bệnh, dạy học, viết sách và làm thơ văn.

Sau khi Hải Thượng Lãn Ông mất, cho đến ngày nay chúng ta biết, học tập, nhớ ơn Hải Thượng Lãn Ông là do tác phẩm “Y Tông Tâm Lĩnh” nghĩa là những điều đã lĩnh hội được của những thầy thuốc trước. Hiện nay người ta gọi tác phẩm này là “Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh”.

Bộ sách này được Hải Thượng biên soạn trong vòng 10 năm. Bắt đầu vào lúc ông 40 tuổi (1760), căn bản hoàn thành khi ông tròn 50 tuổi (1770), và trong vòng 20 năm tiếp theo ông còn bổ sung viết thêm một số tập như Y hải cầu nguyên (1782), Thượng kinh ký sự (1783), Vận khí bí điển (1786). Toàn bộ sách Hải Thượng để lại, bao gồm 28 tập, chia thành 66 quyển.

Tuy bộ “Y tông tâm lĩnh” là một bộ sách thuốc, nhưng có một trong 28 tập không những được giới y dược ưa thích mà còn được các nhà văn, nhà thơ, nhà sử cũng như nhà triết học nước ta đánh giá cao. Đó là tập “Thượng kinh ký sự” trong đó kể lại chuyến đi ra thủ đô Thăng long chữa bệnh của mình. Có thể nói trước và sau Hải Thượng Lãn Ông hầu như văn học nước ta chưa có một tác phẩm viết theo lối văn kể chuyện, người thực chép việc thực, nói lại những chuyện hằng ngày.

Giá trị lịch sử của tập sách này là đã giúp ta thấy lại được một cách sinh động cuộc sống của chúa Trịnh, sinh hoạt giao du của tầng lớp quan lại, nhà nho, mô tả một số người có vai trò nhất định trong lịch sử cuối thời Lê như chúa Trịnh Sâm, Trịnh Cán, Chánh đường Hoàng Đình Bảo. Nó lại giúp ta thấy lại thủ đô Thăng Long cách đây hơn 200 năm, trong đó có nhiều di tích hiện nay không còn nữa. Cũng trong tập ký sự này, chúng ta được biết đời sống, hoạt động của một số thầy thuốc trong phủ chúa Trịnh, việc bảo vệ sức khỏe của vua chúa trong thời kỳ đó. Đọc tập ký sự này, ta còn được biết trong khi nhiều người lấy làm sung sướng vì được vua chúa ban cho quan tước thì Hải Thượng  lại hết sức từ chối, mà cũng chính vì thế mà thoát khỏi bị giết khi quân sĩ trong phủ chúa nổi lên giết hết các quan chức ở đây.

Do những giá trị văn thơ và lịch sử ấy nên chúng ta không ngạc nhiên khi thấy ngay từ năm 1923, tập truyện ký này đã được Nguyễn Trọng Thuật dịch và đăng ở tạp chí Nam Phong, năm 1950 Dương Quảng Hàm trích in trong Việt Nam văn học sử yếu, năm 1959 Phan Võ dịch lại và nhà xuất bản Văn Hóa đã cho in, nhân dịp 250 năm ngày sinh của Hải Thượng, nhà xuất bản Văn Học đã cho sửa chữa lại và tái bản lần nữa.

Hai mươi bảy tập còn lại tác phẩm này dành hoàn toàn cho những vấn đề thuần túy về chữa bệnh, dùng thuốc, nhưng do cách cấu tạo của bộ sách, lối viết đặc biệt của Hải Thượng Lãn Ông, nên bên cạnh những kiến thức chuyên môn về chữa bệnh dùng thuốc, chúng ta còn biết và học tập được ở Hải Thượng quan điểm về nghành nghề, đạo đức của người thầy thuốc cũng như những suy nghĩ hiếm có của một trí thức thời đó.

Về quan điểm nghành nghề. Phải sống lại hoàn cảnh lịch sử nước ta ở thế kỷ XVIII, khi mà tư tưởng cầu danh lợi, ham làm quan, làm tướng coi thường nghề thuốc đang ngự trị ở đầu óc hầu hết trí thức nước ta lúc ấy, mới thấy hết khó khăn của Hải Thượng Lãn Ông khi chọn nghề thuốc làm lẽ sống của đời mình. Hãy nghe Hải Thượng kể lại những lời bàn ra: “Một tân thủ khoa họ Trần, người bạn mới quen ở quận bên, một hôm đến chơi thấy trên bàn có chồng sách thuốc, biết tôi say sưa với nghề thuốc đã: “Tỏ lời can ngăn đôi ba lần mà không thể được” lại nói thêm “Đạo lý rất lớn nhưng gọi là đạo tức là đường lối trị nước”…Chính sách hay phép tắc tốt thì sử sách còn ghi, còn như đạo làm thuốc chỉ thấy chép ở ngoại sử. Tuy Ngũ đế kỉ có chỗ chép về nghề thuốc thì lại chỉ nói song song với việc làm ruộng mà thôi, ngoài ra không thấy đâu nói đến cả. Cho nên nhà nho đời này qua đời khác đều học tập Xuân Thu, sử Tư Mã, dùi mài suốt đông sang hè đủ để làm bước thang phú quý, lẫy lừng công danh. Còn như việc làm thuốc chỉ là một nghệ thuật mà thôi. Nếu như có ai coi trọng một chút thì nói là nhân thuật là cùng. Như vậy, phải chăng đạo làm thuốc không chính thức là nền tảng trong đạo lý của người đời đó ru?”.

Nhưng chúng ta thấy, mặc ai nói ra nói vào, lòng yêu nghề thuốc của Hải Thượng vẫn không thay đổi vì “nghề này có thể giúp người ta yên vui”, vì “đạo làm thuốc cũng giống như đạo làm tướng”.

Về đạo đức của người thầy thuốc, Hải Thượng Lãn Ông viết:

“Đã là thầy thuốc thì nên nghĩ đến việc giúp người, không nên vắng nhà lâu để tìm vui thú riêng như đi chơi ngắm cảnh, mang rượu lên núi uống chơi, vì nhỡ có bệnh cấp cứu, người ta tìm thấy không gặp kịp, hại đến tính mạng con người”. Hoặc như “Nếu cùng một lúc có nhiều người mời đi thăm bệnh, thì phải căn cứ vào bệnh cấp đi trước, bệnh không cấp đi sau chứ không nên vì người bệnh giàu hay nghèo mà đến trước đến sau, như lúc có thuốc cũng căn cứ vào tật bệnh chứ không nên căn cứ vào tiền ít mà cho thuốc tốt xấu”.

“Phàm học thuốc phải luôn luôn trau dồi nghiệp vụ: Khi có chút thời giờ nhàn rỗi, nên luôn nghiên cứu sách thuốc xưa nay, luôn luôn phát huy biến hóa thâu nhập được vào tâm, thấy rõ được ở mắt, thì tự nhiên ứng được vào việc làm mà không phạm sai lầm”.

“Chữa bệnh phải toàn diện. Khi đến xem bệnh ở những nhà nghèo túng hay những người mồ côi góa bụa hiếm hoi lại càng nên chăm sóc đặc biệt, vì những người giàu sang không lo không có người chữa, còn những người nghèo khó thì không đủ tiền đón thầy giỏi, vậy nên ta để tâm một chút, họ sẽ được sống một đời… Những người con thảo, vợ hiền, nghèo mà mắc bệnh, ngoài việc cho thuốc, lại tùy sức mình mà chu cấp cho họ nữa, vì có thuốc mà không có ăn thì vẫn đi đến chỗ chết. Cần phải cho họ sống toàn diện, thì mới đúng là nhân thuật”.

Đáng quý hơn nữa, và điều này hầu như ít thấy ở những thầy thuốc trước và sau Hải Thượng Lãn Ông: Đó là tinh thần không giấu dốt, dám mạnh dạn trình bày những trường hợp bệnh không khỏi, người bệnh đã chết, để người sau rút kinh nghiệm. Thực vậy, cùng với tập “Dương án” kể lại 17 bệnh án khó mà chữa khỏi, Hải Thượng còn viết một tập gọi là “Âm án”, trong đó Hải Thượng đã trình bày 12 trường hợp bệnh khó, và mặc dù đã đem hết tinh thần cứu chữa đến cùng, còn nước còn tát của mình, nhưng cuối cùng người bệnh vẫn chết.

“…Tôi không tự thẹn với trình độ thấp kém trong việc cứu người cho nên ngoài những “Dương án” lại chép thêm một tập kể lại những lời khó nói ra được, gọi là “Âm án”. Mong những bậc trí thức có chí làm thuốc sau này, khi thấy những chỗ hay của tôi chưa đáng bắt chước, nhưng thấy chỗ dở của tôi cần phải lấy làm gương, không nên quá yêu tôi mà bảo: Chỉ chữa được bệnh  mà không chữa được mệnh. Thì đó mới là cái may cho đạo y”.

Tác phẩm “Y tông tâm lĩnh” của Hải Thượng Lãn Ông tuy hoàn thành về cơ bản vào năm 1770, nhưng đã tồn tại gần như nguyên vẹn bằng con đường chép tay, chuyển người này qua người khác, để chờ 115 năm sau (1885) mới được khắc gỗ và in ra phổ biến rộng rãi trong nhân dân và truyền đến ngày nay.

Hải Thượng Lãn Ông – Lê Hữu Trác, thân thế và sự nghiệp, là niềm tự hào của dân tộc ta. Tuy sống cách ta hơn 250 năm, những tư tưởng và phương pháp tư tưởng tiến bộ cũng như thái độ khoa học chân chính của Hải Thượng Lãn Ông vẫn còn là bài học có tính chất thời sự và rất quý báu đối với chúng ta ngày nay.

*Nguồn: Đỗ Tất Lợi, 2009, Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, Nxb Y học- Nxb Thời Đại, tr1062-1066.


Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Lần cập nhật cuối lúc Thứ năm, 05 Tháng 3 2015 10:17