Nhân một trường hợp can thiệp thành công cho bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp bằng kỹ thuật Culotte

Bs.Nguyễn Lương Quang - Khoa Nội TM

I. BỆNH ÁN

Họ và tên:  Trần Văn T.; Giới tính: Nam; Tuổi: 55 tuổi

Tiền sử: Hút thuốc lá 20 gói.năm

LDVV: Đau ngực trái, bắt đầu đau ngực lúc 9h30 phút 15/10/2019

Thời điểm vào viện: 12h35 phút, 15/10/2019.

Tình trạng lúc vào viện:

HÌNH ẢNH MINH HỌA

nhanca1

Hình 1. ECG của bệnh nhân lúc vào Khoa Cấp cứu

nhanca2

Hình 2. Kết quả chụp ĐMV, hẹp nặng LAD do xơ vữa và huyết khối, hẹp nặng lỗ và đoạn đầu nhánh chéo 1

nhanca3

Hình 3. Kissing Balloon sau cùng và kết quả chụp ĐMV, dòng chảy TIMI 3 ở các nhánh, không hẹp tồn lưu

II. TỔN THƯƠNG PHÂN NHÁNH ĐỘNG MẠCH VÀNH

Tổn thương phân nhánh động mạch vành được định nghĩa là một tổn thương xảy ra ngay tại hoặc gần chổ phân chia của một động mạch vành lớn, European Bifurcation Club định nghĩa một tổn thương phân nhánh là có hẹp đáng kể (> 50%) trong một động mạch vành kề nhau và/hoặc hẹp ý nghĩa của nhánh bên. Về mặt giải phẫu tổn thương phân nhánh bao gồm các thành phần: (1) đoạn gần nhánh chính; (2) đoạn xa nhánh chính và (3) nhánh bên. Tổn thương phân nhánh chiếm khoảng 15- 20% ​​các trường hợp can thiệp mạch vành qua da (PCI). Điều trị can thiệp tổn thương phân nhánh là một thách thức với các Bác sỹ can thiệp, có nhiều kỹ thuật được áp dụng tuy nhiên kết cục lâm sàng không phải lúc nào cũng tối ưu do tính chất phức tạp của giải phẫu và những biến đổi động mãng xơ vữa xảy ra trong khi can thiệp. Gần đây, nhờ vào tiến bộ của kỹ thuật mới, sự phát triển của stent phủ thuốc thế hệ mới mà đặt biệt là sự ứng dụng của siêu âm nội mạch (IVUS- IntraVascular UltraSound) hay cắt lớp quang học (OCT- Optical Coherence Tomography), kết quả can thiệp tổn thương phân nhánh đã cải thiện đáng kể [1].

Nhiều phân loại tổn thương phân nhánh tuy nhiên phân loại Medina đơn giản nhất và được sử dụng rộng rãi nhất. Phân loại Medina đánh giá tồn tại mảng xơ vữa tại nhánh chính và/hoặc nhánh bên (hình 4). “True” bifurcation là tổn thương có hẹp đáng kể (> 50%) ở cả nhánh chính và nhánh bên (nghĩa là Medina 1,1,1; 1,0,1; hoặc 0,1,1), tất cả các loại tổn thương khác sẽ được phân loại là “Pseudo-” bifurcation.

nhanca4

Hình 4. Phân loại tổn thương phân nhánh Medina [6]

III. CAN THIỆP TỔN THƯƠNG PHÂN NHÁNH

Cho đến nay, vấn đề can thiệp tổn thương phân nhánh quan trọng nhất là chiến lược 1 stent hay 2 stent, 2 stent thì sử dụng kỹ thuật nào. Quyết định sử dụng kỹ thuật nào trong tổn thương phân nhánh cụ thể không chỉ liên quan đến giải phẫu và sinh lý mạch máu mà còn cả kỹ năng và kinh nghiệm Bác sỹ can thiệp. Đồng thuận lần thứ 14 của European Bifurcation Club đưa ra nguyên tắc can thiệp tổn thương phan nhánh là:

Hiện nay, chiến lược đặt 1 stent tạm thời (provisional stenting) nhánh chính có hay không đặt stent nhánh bên là cách tiếp cận tiêu chuẩn của hầu hết các tổn thương phân nhánh không phải thân chung ĐMV trái. Can thiệp phân nhánh với 2 stent được xem là một thủ thuật nguy cơ cao. ESC 2018 đã nâng mức khuyến cáo: Chỉ đặt stent trong nhánh chính, sau khi nong bóng tạm thời có hoặc không đặt stent nhánh bên từ IIa lên nhóm I (hình 5) [3].

nhanca5

Hình 5. Guideline ESC 2018 về can thiệp ĐMV qua da [3]

nhanca6

Hình 6. Mô phỏng kỹ thuật can thiệp Culotte

IV. KẾT LUẬN

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Banning, A. P. et al. (2019) “Percutaneous coronary intervention for obstructive bifurcation lesions: the 14th consensus document from the European Bifurcation Club,” EuroIntervention, 15(1), pp. 90–98.
  2. Behan, M. W. et al. (2016) “Coronary bifurcation lesions treated with simple or complex stenting: 5-year survival from patient-level pooled analysis of the Nordic Bifurcation Study and the British Bifurcation Coronary Study,” European Heart Journal, 37(24), pp. 1923–1928.
  3. Chen, S. L. et al. (2017) “Double Kissing Crush Versus Provisional Stenting for Left Main Distal Bifurcation Lesions: DKCRUSH-V Randomized Trial,” Journal of the American College of Cardiology, 70(21), pp. 2605–2617.
  4. Gao, X. F. et al. (2014) “Stenting strategy for coronary artery bifurcation with drug-eluting stents: A meta-analysis of nine randomised trials and systematic review,” EuroIntervention, 10(5), pp. 561–569.
  5. Hildick-Smith, D. et al. (2016) “The EBC TWO Study (European Bifurcation Coronary TWO): A Randomized Comparison of Provisional T-Stenting Versus a Systematic 2 Stent Culotte Strategy in Large Caliber True Bifurcations,” Circulation: Cardiovascular Interventions, 9(9), pp. 1–9.
  6. Lassen, J. F. et al. (2016) “Percutaneous coronary intervention for coronary bifurcation disease: 11th consensus document from the European Bifurcation Club,” EuroIntervention, 12(1), pp. 38–46.
  7. Pham, H. Mạnh. et al. (2019) “Modified Jailed Balloon Technique for Coronary Bifurcation Lesions,” Journal of the American College of Cardiology. American College of Cardiology Foundation, 73(9), p. 1365. 

Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Lần cập nhật cuối lúc Thứ ba, 22 Tháng 10 2019 11:27