Phân loại O-RADS MRI trong đánh giá khối u phần phụ

BS. Phan Tuấn Kiệt – 

Tỷ lệ ước tính của các tổn thương phần phụ được tìm thấy trên siêu âm là khoảng 15% trong dân số nói chung. Siêu âm có độ nhạy và đặc hiệu cao để loại trừ khối u phần phụ ác tính, và khi các đặc điểm lành tính kinh điển thấy được, nguy cơ ác tính gần bằng 0%. Tuy nhiên, khi không có các đặc điểm hình ảnh siêu âm kinh điển của nang đơn thuần hoặc nang xuất huyết, u bì hoặc nang lạc nội mạc, khả năng ác tính vẫn có. Khi một tổn thương có các đặc điểm hình ảnh không xác định ở siêu âm, giá trị tiên đoán dương tính (PPV) của ung thư có thể nằm trong khoảng từ 7% đến 50% và khi một tổn thương có các đặc điểm đáng lo ngại về bệnh ác tính, PPV cho ung thư nằm trong khoảng từ 29% đến hơn 50 %.

Chụp cộng hưởng từ (MRI) cung cấp chẩn đoán cụ thể hơn đối với các tổn thương không xác định được bằng siêu âm, làm giảm mức độ nghi ngờ và do đó giảm số ca phẫu thuật được thực hiện đối với các chẩn đoán lành tính ở phụ nữ không có triệu chứng. Ngoài việc loại trừ bệnh ác tính, độ phân giải mô mềm cao và khả năng mô tả thành phần nang khác nhau cho phép đánh giá chính xác hơn loại tổn thương. Hơn nữa, khả năng đa mặt phẳng của MRI cho phép đánh giá toàn bộ tổn thương, bất kể kích thước hoặc vị trí tổn thương. Điều này đặc biệt quan trọng trong trường hợp các tổn thương có nhú nhỏ hoặc các nốt mô mềm và các tổn thương phần phụ lớn, cả hai đều có thể được đánh giá không đầy đủ bằng siêu âm. MRI cũng rất quan trọng trong việc đánh giá một tổn thương có nguồn gốc từ buồng trứng hay không. Theo một nghiên cứu gần đây, trong các tổn thương được gọi là tổn thương buồng trứng trên siêu âm được gởi đi chụp MRI, 10% có nguồn gốc từ các cơ quan khác và được phân loại lại bằng MRI với độ chính xác 97%.

Gần đây, Trường Điện quang Hoa Kỳ (ACR) đã công bố một hệ thống phân tầng nguy cơ và thuật ngữ cho các tổn thương phần phụ. ACR O-RADS MRI bao gồm các thuật ngữ và định nghĩa được tiêu chuẩn hóa để đánh giá và báo cáo các tổn thương phần phụ, hệ thống phân tầng rủi ro O-RADS MRI cũng giúp đưa ra xác suất ác tính của các khối u.

phanloai1

Có sáu mức điểm trong hệ thống phân tầng nguy cơ O-RADS MRI: O-RADS MRI 0 (kiểm tra không đầy đủ), O-RADS MRI 1 (buồng trứng bình thường, bao gồm nang trứng và hoàng thể), O-RADS MRI 2 (gần như chắc chắn là lành tính; PPV <0,5%), O-RADS MRI 3 (nguy cơ thấp; PPV xấp xỉ 5%), O-RADS MRI 4 (nguy cơ trung bình; PPV xấp xỉ 50%) và O-RADS MRI 5 (nguy cơ cao; PPV khoảng 90%)

phanloai2

Mục tiêu chính của hệ thống phân tầng nguy cơ O-RADS MRI là cải thiện giao tiếp giữa bác sĩ Hình ảnh và bác sĩ Lâm sàng, bệnh nhân có tổn thương lành tính hoặc khối u giáp biên có thể tránh phẫu thuật không cần thiết hoặc quá rộng rãi, trong khi khối u có khả năng ác tính được đánh giá phẫu thuật kịp thời.

Vài ví dụ về phân loại O-RADS khối u phần phụ trên MRI:

phanloai3

Tổn thương buồng trứng (mũi tên) tín hiệu thấp trên T2W và trên DWI (b=1000) được xếp loại O-RADS 2, nguy cơ ác tính < 0,5%, khả năng u sợi. Đầu mũi tên chỉ nhân xơ tử cung.

phanloai4

Tổn thương buồng trứng có thành phần đặc (mũi tên trắng), đường cong bắt thuốc dạng nguy cơ cao, được xếp loại O-RADS 5, nguy cơ ác tính ~90%

Chi tiết về các thuật ngữ, cách phân loại:

https://pubs.rsna.org/doi/full/10.1148/radiol.204371

https://www.acr.org/Clinical-Resources/Reporting-and-Data-Systems/O-Rads

Công cụ trực tuyến giúp tính O-RADS:

https://oradsmricalc.com/

Tài liệu tham khảo

  1. O-RADS MRI Risk Stratification System: Guide for Assessing Adnexal Lesions from the ACR O-RADS Committee - Radiology 2022 303:1, 35-47
  2. Ovary: MRI characterisation and O-RADS MRI - The British Journal of Radiology 2021 94:1125

Tin mới hơn:
Tin cũ hơn: