• Phone: 0235.3851.429
  • Hotline: 19009095
  • Thông tin:

dieuhanhtructuyen

Tập san Y học

Tầm soát bệnh lý tuyến giáp trong thai kỳ

  • PDF.

Bs Tạ Thanh Uyên - 

Thay đổi sinh lý của tuyến giáp trong thời kỳ mang thai

Hormone tuyến giáp rất cần thiết trong thai kỳ cho cả sự phát triển bình thường của trẻ và sức khỏe của mẹ. Do đó, các rối loạn chức năng tuyến giáp trong thai kỳ cần được chẩn đoán và điều trị sớm giúp tránh được những tác hại không mong muốn cho cả mẹ và con. Khi mang thai, thể tích tuyến giáp tăng tới 10% ở những vùng có đủ iod và lên đến 40% ở những vùng thiếu iod. Sự thay đổi này liên quan đến sự gia tăng tổng hợp hormone tuyến giáp khoảng 50%, nguyên nhân do nhiều yếu tố như thai hoàn toàn phụ thuộc vào hormone tuyến giáp của mẹ trong 3 tháng đầu thai kỳ, thai tiết ra men deiodinase loại 3 làm tăng thoái giáng hormone giáp, tăng độ lọc cầu thận làm tăng thải iod qua thận, sự gia tăng đáng kể nồng độ hCG trong thai kỳ làm tăng tổng hợp hormone tuyến giáp do hCG có cấu trúc gần giống với TSH, tăng nồng độ thyroxine binding globulin (TBG) (Hình 1).

giapthai

Hình 1. Những thay đổi chức năng tuyến giáp của mẹ trong thời kỳ mang thai (Korevaar và cs, 2017)

Xem tiếp tại đây

Phân loại O-RADS MRI trong đánh giá khối u phần phụ

  • PDF.

BS. Phan Tuấn Kiệt – 

Tỷ lệ ước tính của các tổn thương phần phụ được tìm thấy trên siêu âm là khoảng 15% trong dân số nói chung. Siêu âm có độ nhạy và đặc hiệu cao để loại trừ khối u phần phụ ác tính, và khi các đặc điểm lành tính kinh điển thấy được, nguy cơ ác tính gần bằng 0%. Tuy nhiên, khi không có các đặc điểm hình ảnh siêu âm kinh điển của nang đơn thuần hoặc nang xuất huyết, u bì hoặc nang lạc nội mạc, khả năng ác tính vẫn có. Khi một tổn thương có các đặc điểm hình ảnh không xác định ở siêu âm, giá trị tiên đoán dương tính (PPV) của ung thư có thể nằm trong khoảng từ 7% đến 50% và khi một tổn thương có các đặc điểm đáng lo ngại về bệnh ác tính, PPV cho ung thư nằm trong khoảng từ 29% đến hơn 50 %.

Chụp cộng hưởng từ (MRI) cung cấp chẩn đoán cụ thể hơn đối với các tổn thương không xác định được bằng siêu âm, làm giảm mức độ nghi ngờ và do đó giảm số ca phẫu thuật được thực hiện đối với các chẩn đoán lành tính ở phụ nữ không có triệu chứng. Ngoài việc loại trừ bệnh ác tính, độ phân giải mô mềm cao và khả năng mô tả thành phần nang khác nhau cho phép đánh giá chính xác hơn loại tổn thương. Hơn nữa, khả năng đa mặt phẳng của MRI cho phép đánh giá toàn bộ tổn thương, bất kể kích thước hoặc vị trí tổn thương. Điều này đặc biệt quan trọng trong trường hợp các tổn thương có nhú nhỏ hoặc các nốt mô mềm và các tổn thương phần phụ lớn, cả hai đều có thể được đánh giá không đầy đủ bằng siêu âm. MRI cũng rất quan trọng trong việc đánh giá một tổn thương có nguồn gốc từ buồng trứng hay không. Theo một nghiên cứu gần đây, trong các tổn thương được gọi là tổn thương buồng trứng trên siêu âm được gởi đi chụp MRI, 10% có nguồn gốc từ các cơ quan khác và được phân loại lại bằng MRI với độ chính xác 97%.

Gần đây, Trường Điện quang Hoa Kỳ (ACR) đã công bố một hệ thống phân tầng nguy cơ và thuật ngữ cho các tổn thương phần phụ. ACR O-RADS MRI bao gồm các thuật ngữ và định nghĩa được tiêu chuẩn hóa để đánh giá và báo cáo các tổn thương phần phụ, hệ thống phân tầng rủi ro O-RADS MRI cũng giúp đưa ra xác suất ác tính của các khối u.

phanloai1

Đọc thêm...

Siêu âm trong Hồi Sức Cấp Cứu

  • PDF.

Bs Đinh Hồng Thảo - 

I. Tóm tắt

1. Mục đích của bài review

Bài viết này tóm tắt ứng dụng và bằng chứng hỗ trợ cho việc sử dụng siêu âm trong ICU.

2. Các phát hiện gần đây

Siêu âm có trọng điểm tại giường (POCUS: Point-of-care ultrasonography) đã được sử dụng rộng rãi bởi các nhà hồi sức trong quản lí bệnh nhân hồi sức do chúng có thể đánh giá nhanh chóng và chính xác nhiều bệnh lí như tràn khí màng phổi, phù phổi, thận ứ nước, tràn máu phúc mạc, huyết khối tĩnh mạch sâu. Siêu âm tim trong hồi sức cơ bản và nâng cao bao gồm cả siêu âm tim qua thực quản được thực hiện thường qui để xác định bệnh nguyên của huyết động không ổn định trong shock không phân biệt được và hướng dẫn thực hiện các liệu pháp tiếp theo. Việc sử dụng POCUS trong đánh giá thể tích dịch vẫn đang còn tranh cãi, các nghiên cứu cho thấy sự biến đổi theo hô hấp của IVC không đánh tin cậy và phân tích tốc độ dòng máu qua van động mạch chủ sau khi thực hiện nghiệm pháp nâng chân thụ động đang trở thành công cụ hứa hẹn nhất.

3. Tổng kết

POCUS cho phép các bác sĩ lâm sàng ở tuyến đầu đưa ra các chẩn đoán và quyết định điều trị theo thời gian thực. Bài viết này sẽ cung cấp cho độc giả 1 bài tổng quan về chủ đề quan trọng này.

POCUS

Xem tiếp tại đây

Dấu ấn sinh học trong nhiễm trùng huyết

  • PDF.

Bs Lê Văn Tuấn - 

Nhiễm trùng huyết được định nghĩa là một phản ứng không được kiểm soát của vật chủ đối với nhiễm trùng dẫn đến rối loạn chức năng cơ quan đe dọa tính mạng. Nó có tỷ lệ tử vong trong 30 ngày ước tính là 24,4% và tăng lên 34,7% ở những bệnh nhân bị sốc. Trụ cột chính trong quản lý nhiễm trùng huyết là bắt đầu dùng kháng sinh sớm. Tuy nhiên, việc sử dụng kháng sinh phổ rộng không phù hợp có thể dẫn đến tình trạng kháng kháng sinh và thậm chí làm tăng tỷ lệ tử vong. Việc xác định 30,6% đến 56,4% bệnh nhân nhiễm trùng huyết âm tính có thể ngăn ngừa những kết quả bất lợi này thông qua việc thực hiện giảm leo thang kháng sinh và ngay cả ở những người có kết quả nuôi cấy dương tính, có thể giảm thời gian điều trị. Ngoài ra, các hệ thống tính điểm dựa trên phòng thí nghiệm và lâm sàng hiện tại thiếu độ nhạy và độ đặc hiệu để hướng dẫn các bác sĩ lâm sàng đưa ra quyết định phân loại và tiên lượng. Để giải quyết những tình huống khó xử này, các bác sĩ lâm sàng đã chuyển sang sử dụng các dấu ấn sinh học, được định nghĩa là các phân tử có thể được đo lường và đánh giá một cách khách quan như một chỉ báo về các quá trình sinh học cơ bản. 

presepsin

Đọc thêm...

Lần cập nhật cuối lúc Thứ ba, 02 Tháng 5 2023 09:24

Lọc máu HD và thẩm tách siêu lọc máu

  • PDF.

BS. Đặng Thị Quỳnh Chi - 

1. GIỚI THIỆU

Lọc máu thông thường (HD) dựa trên sự khuếch tán vận chuyển các chất tan qua màng bán thấm và có hiệu quả trong việc loại bỏ các chất hòa tan và chất điện giải có trọng lượng phân tử nhỏ (MW) hòa tan trong nước. Việc loại bỏ các chất hòa tan có kích thước phân tử lớn hơn, chẳng hạn như phosphate, β2-microglobulin bị giới hạn bởi sự đề kháng với cơ chế khuếch tán. Bởi vì sự loại bỏ không hiệu quả lượng lớn chất độc ure máu có thể góp phần vào gia tăng nguy cơ tỷ lệ tử vong cao do tim mạch được quan sát thấy ở những bệnh nhân này, do đó sự cần thiết phải loại bỏ tốt hơn của các chất hòa tan đã trở nên rõ ràng. Các phân tử lớn hơn đã được biết đến từ lâu rằng là có thể được loại bỏ qua màng lọc một cách hiệu quả hơn bằng cơ chế vận chuyển đối lưu, là cơ chế lọc ít bị giới hạn về kích thước phân tử hơn so với lọc bằng cơ chế khuếch tán.

Vào những năm 1970, lọc máu (HF) được phát triển như một liệu pháp đối lưu thuần túy, sau đó là sự ra đời của thẩm tách siêu lọc máu (HDF), kết hợp các ưu điểm của khuếch tán và đối lưu vào một liệu pháp. Ở cả HF và HDF, nước trong huyết tương được lọc qua màng quả lọc vượt quá thể tích siêu lọc (UFV) cần thiết để kiểm soát tình trạng cân bằng dịch. Thể tích dịch lọc được thay thế vào máu dưới dạng dịch thay thế vô trùng, không gây sốt để duy trì sự ổn định huyết động.

 

locmauu

Xem tiếp tại đây

 

You are here Đào tạo Tập san Y học