• Phone: 0235.3851.429
  • Hotline: 19009095
  • Thông tin:

dieuhanhtructuyen

Tập san Y học

Bệnh Melioidosis (bệnh Whitmore)

  • PDF.

Bs Đinh thị Hằng Nga - 

Phần I

Gần đây trong bệnh viện xuất hiện một số trường hợp cấy máu dương tính với vi khuẩn Burkholderia.Tuy nhiên không phải tất cả đều như nhau mà tùy theo các nhóm khác nhau của vi khuẩn này mà bệnh cảnh lâm sàng khác nhau. Chúng tôi viết bài này từ việc tóm lược một số tài liệu để các đồng nghiệp tham khảo thêm.

Bệnh melioidosis, do vi khuẩn gram âm Burkholderia pseudomallei gây ra, là một căn bệnh có tầm quan trọng đối với sức khỏe cộng đồng ở Đông Nam Á và miền Bắc Australia có liên quan đến tỷ lệ tử vong cao ở động vật và người. Nó có khả năng lây lan dịch sang các khu vực không có dịch bệnh lưu hành, và các báo cáo trường hợp lẻ tẻ ở những nơi khác trên thế giới cho thấy có thể tồn tại các ổ nhiễm trùng chưa được phát hiện. 

melioidosis

Đọc thêm...

Lần cập nhật cuối lúc Thứ tư, 23 Tháng 9 2020 10:18

Tập trung vào hệ tiêu hóa ở bệnh nhân nặng

  • PDF.

Bs Nguyễn Hoàng Kim Ngân - 

Tình trạng tiêu hóa hoặc trong ổ bụng là một nguyên nhân chính dẫn đến bệnh nguy kịch. Ngoài ra, bệnh nguy kịch kết tủa làm thúc đẩy tình trạng tổn thương hệ tiêu hóa, qua trung gian giảm tưới máu, thiếu oxy và viêm toàn thân. Bài xã luận này đánh giá những tiến bộ đạt được về vấn đề tiêu hóa ở bệnh nhân nặng được báo cáo trong các báo cáo gần đây để tập trung vào các nhu cầu nghiên cứu thêm trong lĩnh vực này (Hình  1 ).

Một nghiên cứu quan sát gần đây được thực hiện bởi nhóm Abdominal Sepsis Study (AbSeS) (AbSeS) (từ European Society of Intensive Care Medicine) bao gồm 2621 bệnh nhân bị nhiễm trùng ổ bụng từ 42 quốc gia và tỷ lệ tử vong được báo cáo là 29,1% [1 ]. Tỷ lệ lưu hành của tình trạng đề kháng kháng sinh đáng lo ngại là 26.3%; đáng lo ngại, điều này khá phổ biến trong nhiễm trùng mắc phải tại cộng đồng cũng như nhiễm trùng bệnh viện [ 1 ].

Bên cạnh nhiễm trùng trong ổ bụng, một trong những biểu hiện quan trọng của tổn thương đường tiêu hóa ở các bệnh nhân nặng là chảy máu đường tiêu hóa liên quan đến stress (GIB), điều này làm tăng nguy cơ tử vong bà thời gian điều trị tại đơn vị Chăm sóc tích cực (ICU) [ 2 ]. Tuy nhiên, điều trị thường quy dự phòng loét do stress của chứng loét vẫn còn được tranh luận. Bởi vì các thử nghiệm có liên quan mới đây bao gồm cả thử nghiệm SUP-ICU [ 3 ] được xuất bản gần đây, Barbateskovic và cộng sự [ 4 ] đã tiến hành một đánh giá có hệ thống với phân tích tổng hợp các thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên đánh giá tác dụng của thuốc ức chế bơm proton (PPI) hoặc thuốc đối kháng thụ thể histamine-2 (H2RA) so với giả dược hoặc không dự phòng về tỷ lệ tử vong, GIB và các tác dụng phụ. Phân tích 42 thử nghiệm bao gồm 6899 bệnh nhân ICU, họ thấy rằng PPI hoặc H2RA không cải thiện tỷ lệ tử vong nhưng giảm GIB gần 50%. Tuy nhiên, các hiệu quả về mặt lâm sàng của GIB nặng, các tác dụng phụ nghiêm trọng, chất lượng cuộc sống liên quan đến sức khỏe, nhồi máu cơ tim, viêm phổi và viêm ruột do C. difficile vẫn không kết luận được.

Gastrointestinal

Đọc thêm...

Lần cập nhật cuối lúc Thứ tư, 16 Tháng 9 2020 11:27

Hormon kháng ống Muller (Anti-Mullerian Hormon - AMH)

  • PDF.

Bs Ngô Lê Ái Thảo - 

Tổng quan

Hormon kháng ống Muller (Anti-Mullerian Hormon - AMH), còn được gọi là chất ức chế ống Muller (Mullerian Inhibiting substance – MIS) được phát hiện vào năm 1947 bởi Alfred Jost, người đầu tiên nghi ngờ có sự tồn tại của một yếu tố đặc biệt ảnh hưởng đến sự phân hóa giới tính nam trong thời kỳ bào thai. Và vào năm 1984, Vigier và cộng sự phát hiện AMH cũng được tiết ra ở người nữ.(2)

AMH là một glycoprotein khoảng 140 kDa, gồm hai tiểu đơn vị giống nhau, nối nhau qua cầu nối disulfide, thuộc họ yếu tố tăng trưởng chuyển đổi - beta (transforming growth factor – beta: TGF - β) tham gia vào việc điều hòa tăng trưởng và biệt hóa mô.(2)

amh1

Hình 1: Cấu trúc AMH

Đọc thêm...

Lần cập nhật cuối lúc Thứ hai, 14 Tháng 9 2020 15:19

Liệu pháp kháng tiểu cầu chu phẫu

  • PDF.

BsCKII Trần Lâm - 

Liệu pháp chống huyết khối (antithrombotic therapy) bao gồm 2 thành phần là liệu pháp kháng đông (anticoagulant therapy) và liệu pháp kháng tiểu cầu (antiplatelet therapy).

Liệu pháp kháng tiểu cầu là một thành phần thiết yếu của điều trị chống huyết khối xơ vữa. Thuốc kháng tiểu cầu được sử dụng đơn trị hoặc phối hợp (aspirin và một thuốc ức chế thụ thể P2Y12) trong chỉ định phòng ngừa và điều trị các bệnh tim mạch do xơ vữa như bệnh động mạch vành, bệnh mạch máu não và bệnh động mạch ngoại biên.

1. Biến cố tim mạch trong thời gian chu phẫu:

Thời gian chu phẫu được đặc trưng bởi sự hiện diện của các tình trạng tiền viêm và tiền đông làm tăng nguy cơ xuất hiện hội chứng tắc mạch cấp. Các thuốc kháng tiểu cầu có tác dụng làm giảm các biến cố tắc mạch và đối phó với tình trạng tăng hoạt tính tiểu cầu sau phẫu thuật. Một phân tích gộp lớn gồm 50.279 bệnh nhân sử dụng aspirin để phòng ngừa thứ phát cho thấy, nguy cơ biến cố tim mạch nặng sau khi ngưng aspirin cao gấp 3 lần (OR = 3,14) so với tiếp tục điều trị aspirin. Điều này thậm chí rõ ràng hơn ở bệnh nhân có đặt stent mạch vành (OR = 89,78). Tuy nhiên, tiếp tục điều trị aspirin cũng có thể làm tăng nguy cơ xuất huyết. Vì vậy, ngưng điều trị aspirin chỉ nên được xem xét nếu nguy cơ xuất huyết nhiều hơn nguy cơ biến cố huyết khối.

khangtc

Hình 1. Cơ chế bệnh sinh của huyết khối stent, nhồi máu cơ tim và tử vong ở bệnh nhân đặt stent mạch vành được phẫu thuật

Đọc thêm...

Lần cập nhật cuối lúc Thứ tư, 19 Tháng 8 2020 15:57

Thiếu máu tán huyết sau sửa van hai lá

  • PDF.

Bs Trần Thị Thảo - 

Đại cương

Sửa van hai lá hiện đang là thủ thuật được ưu tiên cho hở van hai lá nếu khả thi và được thực hiện bởi bác sĩ có kinh nghiệm. Nhiều tác giả khuyến khích sửa van hai lá khi tổn thương van hai lá có thể sửa được vì cách tiếp cận này có ưu điểm là bảo tồn chức năng thất trái tốt hơn và giảm gánh nặng điều trị chống đông.

Thiếu máu tán huyết (HA: hemolytic anemia) là biến chứng được biết nhiều sau thay van hai lá nhân tạo (van sinh học hoặc van cơ học) với tần suất từ 5 – 15% [5]. Thiếu máu tán huyết (TMTH) trong những trường hợp này đa số đáp ứng tốt với liệu pháp bổ sung sắt và phẫu thuật lại, những trường hợp TMTH kháng trị tiên phát hiếm gặp và thường không điều trị thành công. Thiếu máu tán huyết sau thay vòng van sửa van ít được biết đến. Chỉ có 7 bệnh nhân trong số 1548 bệnh nhân sửa van hai lá cần phẫu thuật lại do thiếu máu tán huyết [5]. Lịch sử nước Anh lần đầu tiên ghi nhận bệnh nhân tán huyết sau sửa van hai lá vào năm 1980. Từ đó đến năm 2012, AbouRjaili và cộng sự chỉ ghi nhận được 70 trường hợp TMTH sau sửa van hai lá. Trong thống kê này, độ tuổi bệnh nhân TMTH sau sửa van hai lá là 58±18 tuổi (40% ở nam giới), với thời gian trung bình lúc chẩn đoán là 60 ngày [2].

suavan1

Đọc thêm...

Lần cập nhật cuối lúc Chủ nhật, 26 Tháng 7 2020 21:25

You are here Đào tạo Tập san Y học